XUÂN VŨ: MỘT NGÔI SAO VĂN HỌC ĐÃ TẮT!
Lê Tùng Minh
Một đêm đã xa lắm rồi, xa đến hơn 50 năm về trước, tại ngã ba Huyện Sử, nằm giữa
tuyến kinh xáng Chắc Băng – Thới Bình (Càmau) thuộc chiến khu U Minh trong thời
Nam Bộ Kháng Chiến Chống Pháp (1945-1954), tôi đã gặp và làm quen với một anh
thanh niên trạc tuổi hai mươi, nước da trắng, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt
đã đượm máu phong sương. Đó chính là anh Xuân Vũ (tên họ thật là Bùi Quang
Triết), phóng viên của tờ báo “Tiếng Súng Kháng Địch", trực thuộc Sở Văn
Hóa-Thông Tin Nam bộ (1950-1954), và là nhà văn Xuân Vũ sau này (1960-2003).
Tôi gặp Xuân Vũ tại quán sách báo của nhà thơ Nguyễn Bính - Anh Nguyễn Bính vốn
là Cán bộ của Sở Văn hóa Thông tin Nam bộ, vì bất mãn với cấp lãnh đạo, nên đã
rời bỏ cơ quan từ năm 1949, về Huyện Sử lấy một phụ nữ nông dân làm vợ, cất một
cái chòi tại chợ Huyện Sử để bán sách báo kháng chiến; nhưng cái “nồi cơm gia
đình” của nhà thơ là do bàn tay lao động sản xuất của người vợ nông dân chu
toàn! Xuân Vũ đến quán sách Nguyễn Bính là vì yêu chuộng tài làm thơ của Anh.
Còn tôi, cùng lứa tuổi với Xuân Vũ, tuy là chiến sĩ Quân Báo, nhưng lại thích
văn chương, do đó lần nào trên đường từ căn cứ địa đi ra mặt trận, tôi đều ghé
qua quán sách báo – mà chúng tôi hay gọi văn hoa là “Quán Thơ Nguyễn Bính”.
Xuân Vũ và tôi đều được nhà thơ mến khách chiêu đãi một bình “Trà Quạu” (tức trà
thật đậm). Và đến lúc đó, tôi mới biết Xuân Vũ là tác giả của bài thơ “Ngày Mai
Em Lớn Cầm Súng Bắn Tây” đã được đăng trên tờ báo “Tiếng Súng Kháng Địch”. Bài
thơ ấy, là sáng tác đầu tay của Xuân Vũ, đã được nhạc sĩ Phan Vân phổ thành ca
khúc cùng tên, được phổ biến rộng rãi trong vùng giải phóng. Chúng tôi, tuy mới
gặp nhau lần đầu, nhưng rất dễ thân nhau, vì cùng là học sinh đã “Xếp bút nghiên
lên đường tranh đấu”, đi theo “Tiếng gọi của sơn hà nguy biến”.... Xuân Vũ là
người sinh trưởng ở Mỏ Cày (Bến Tre), tôi sinh ra và lớn lên ở Long Phú (Sốc
Trăng). Nếu không có tham gia kháng chiến, thì dù chỉ cách nhau có hai giòng
sông lớn- Sông Tiền và Sông Hậu- chúng tôi cũng không có cơ hội làm quen với
nhau!
Quen nhau đây, xa nhau đó là chuyện bình thường, rất dễ xẩy ra trong chiến
tranh. Xuân Vũ thường đi công tác ở các đơn vị thuộc ba thứ quân (Dân quân Du
kích, Địa phương quận, Chủ lực quân) ở khắp các địa phương trong khu 9, để lấy
tin, viết phóng sự đăng báo. Còn tôi lại thường len lỏi ngoài vùng địch chiếm để
trinh sát tình hình quân địch, nhằm phục vụ cho các chiến dịch tiêu diệt quân
thù trên chiến trường. Bởi vậy, chúng tôi hầu như không có điều kiện để thực
hiện lời hứa “Sẽ gặp lại nhau ở Quán Thơ Nguyễn Bính”. Trong mấy năm kháng chiến
sau cùng (1950-1954), chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc với nhau!
Mười năm sau (1950-1960).
Đó
là vào một buổi chiều mùa Đông, mưa phùn lất phất bay, gió bấc se se lạnh, tôi
và hai người bạn đồng hương, rủ nhau đến ‘Quán trà Nam Bộ” ở đầu đường Quang
Trung (gần Hồ Gươm), để “uống trà nóng cho ấm lòng trong những ngày xa quê
hương”! Chúng tôi uống trà với đậu phộng rang, cùng những câu chuyện râm ran,
hòa chung không khí ‘Trà Đạo” của các ông khách ghiền trà đang xúm xít ở các bàn
chung quanh, tạo thành sự ồn ào, trong một cái quán nhỏ hẹp, nhưng ấm áp tình
người, giữa cái giá lạnh của một chiều Đông Hà Nội!
-
“Các bạn biết không? Uống trà như chúng ta đang uống ở đây chỉ là uống cho đỡ
ghiền, chớ chưa đúng nghĩa “Uống Trà Chuyên Nghiệp” đâu nhé!”
Một anh Nam bộ ở bàn bên cạnh, trạc tuổi ba mươi, có mái tóc dài trùm cả ót- mà
văn nghệ sĩ Hà Nội hay gọi đùa là “Kiểu tóc Nguyễn Tuân”, trông rất nghệ sĩ, nói
một cách sôi nổi
-
“Xin hỏi anh Xuân Vũ: Thế nào là uống trà chuyên nghiệp?”
Một anh Nam bộ ngồi cùng bàn với người vừa nói, thắc mắc hỏi
Nghe hai tiếng Xuân Vũ, tôi liền nhớ lại Xuân Vũ của mười năm trước: ”Chẳng lẽ
đúng là anh ta” Tôi thầm hỏi
-
“Đây là sự giải thích của nhà văn Nguyễn Tuân, trong truyện “Những Chiếc Ấm Đất”
của ông. Tôi chỉ là người lập lại nguyên văn mà thôi Theo nhà văn Nguyễn Tuân :
«Một người uống trà chuyên nghiệp, có những bộ đồ trà rất quý. Uống trà phải nấu
với nước xin ở chùa Đồi Mai, ở cái giếng ấy mà thôi, không đâu khác... »
Xuân Vũ cười, nói thêm:
-
"Đó là truyên được tiểu thuyết hóa mà thôi! Ai biết chùa Đồi Mai là ở đâu để mà
xin nước chớ?”
Tôi chú ý theo dõi cách nói chuyện và quan sát cử chỉ của Xuân Vũ... Tôi khẳng
định: «Chính anh ta là Xuân Vũ mà tôi đã quen ở mười năm trước!»
-
«Xin lỗi anh, anh có phải là Xuân Vũ, phóng viên của báo “Tiếng Súng Kháng Địch”
ở quân khu 9 vào năm 1950 không?”Tôi day qua bàn bên kia, hỏi người được gọi tên
là Xuân Vũ.
Xuân Vũ quay qua nhìn tôi, đưa bàn tay trái lên vuốt tóc một cách điệu nghệ,
nhìn tôi lom lom, suy nghĩ vài giây, rồi như đã nhớ ra... Anh ta reo lên:
-
“Nhớ rồi! Một đêm ở “Quán Thơ Nguyễn Bính” tại chợ Huyện Sử... phải không? Đêm
đó, chúng ta cùng uống “Trà Quạu” do nhà thơ chiêu đãi. Anh Nguyễn Bính còn ngâm
cho chúng ta nghe bài XUÂN VỀ... có đúng không?”
Một anh bạn Bắc Kỳ ngồi chung bàn với Xuân Vũ, nổi hứng, cất giọng ngâm 4 câu
đầu của bài “Xuân Về” rằng:
“Đã thấy Xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong.”
Khách uống trà đều vỗ tay hoan hô người ngâm thơ...
Xuân Vũ đứng lên bắt tay tôi, nói:
-
“Nếu tôi nhớ không lầm, anh là Sáu Tùng phải không?”
-
“Phải Anh có trí nhơ rất tốt!” Tôi đáp và hỏi Xuân Vũ:
-
«Sau 5 năm ra Bắc, anh đã thực hiện được mộng ước NHÀ VĂN của anh hay chưa »?
-
«Xuân Vũ là nhà văn trẻ đầy triển vọng của Hội Nhà Văn Việt Nam đó!”
Cũng anh bạn Bắc kỳ ấy nói chen vào.
-
«Mới vọt vẹt viết được vài truyện ngắn thôi... còn xa mới đạt được danh hiệu NHÀ
VĂN cho thật đúng nghĩa của bốn chử KỸ SƯ TÂM HỒN!»
-Xuân Vũ khiêm tốn tự xét mình, rồi hỏi lại tôi:
-
«Anh đã đạt được nguyện vọng trở thành nhà viết tiểu thuyết trinh thám, như anh
đã tâm sự với tôi hay chưa»
Tôi lắc đầu, trả lời:
-
«Tôi vừa tốt nghiệp khoa Sử của Trường Đại Học Tổng Hợp, và đang chờ sự phân
công của Bộ Giáo Dục.»
-
Cả hai chúng tôi đều vui mừng đã gặp lại nhau, sau mười năm xa cách, và vui mừng
hơn là mỗi người đều có sự nghiệp viết lách của mình... Nhưng sau đó, chúng tôi
cũng không thường gặp nhau...
Bởi vì Hội Nhà Văn Việt Nam đang ở vào thời kỳ «đấu tranh chống ảnh hưởng của
Phong trào Nhân văn Giai phẩm» – Thời kỳ mà truyện ÔNG NĂM CHUỘT của cụ Phan
Khôi đã làm cho ông Hồ Chí Minh bực mình, và Lê Duẫn, Trường Chinh, Lê Đức
Thọ... đều nổi giận! Thời kỳ mà Trần Dần đã miêu tả rằng: «Tôi bước đi, không
thấy phố, không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa, trên màu cờ đỏ. Đất nước khô khan
này, sao không thấm được vào Thở» (Trong bài thơ Nhất Định Thắng), đã làm cho Bộ
Chính Trị Trung Ương Đảng điên tiết! Vì vậy Xuân Vũ cùng nhiều văn nghệ sĩ khác
đều phải vùi đầu vào cái gọi la chỉnh huấn, chỉnh huấn liên tục, và kiểm thảo tư
tưởng không ngừng; phải đi lao động thực tế ở các công trường, nông trường, để
cải tạo tư tưởng, nhưng được khoát dưới mỹ từ là “Đi thực tế để có vốn sống hiện
thực, nhằm mục đích giúp cho các nhà văn sáng tác nên những tác phẩm có tính
Đảng cao!”
Còn tôi, sau khi được phân công về công tác ở Viện Sử Học, trực thuộc Ủy Ban
Khoa Học Nhà Nước, cũng không thoát khỏi “Búa Rìu Chỉnh Huấn” chống chủ nghĩa
xét lại hiện đại. Bởi vì, theo đánh giá của Ban Tuyên Huấn Trung Ương Đảng do
Trường Chinh lãnh đạo, thì cơ quan này là “Cái Ổ Xét Lại Hiện Đại”, mà người cầm
đầu là ông Viện Trưởng Viện Triết Học Hoàng Minh Chính... Do vậy, cùng sống trên
mảnh đất thủ đô, mà tôi và Xuân Vũ rất ít gặp nhau. Trong những năm 1960-1964, ở
Hà Nội nói riêng, ở Miền Bắc Việt Nam nói chung, là “Thời Kỳ Khủng Bố “ của nhà
nước chuyên chính vô sản đối với những Trí thức- Văn Nghệ sĩ có tư tưởng Xét lại
sự Lãnh đạo của Đảng.”(!)
Vào một buổi chiều của những ngày cuối năm 1963, tôi đạp xe đạp từ Phố Hàng
Chuối ra đến ngã tư Trần Hưng Đạo- Hàng Bài, với ý định vào “Nhà Hàng Ăn Quốc
Doanh Hàng Bài”, để kiếm món gì nhét cho đầy cái dạ dày đang trống rỗng.... Bỗng
tôi nghe tiếng của Xuân Vũ, từ trong cái quán bia hơi ở ven đường Trần Hưng đạo,
gọi vói ra:
- “Sáu Tùng! Sáu Tùng! Vô đây, vô đây... »
Tôi xuống xe đạp, dắt “con ngựa sắt” để dựa vào tường nhà trong khuôn viên của
quán bia hơi. Tôi cười nhìn Xuân Vũ hỏi:
-
“Bấy lâu, đi đâu biệt tăm, không thấy lại “Quán Trà Tri Kỷ”? (chúng tôi đặt tên
cho quán trà Nam Bộ như vậy)
-
“Đâu có rảnh rỗi mà lại Tri Kỷ hay đến Tri Âm như những ông bạn nhàn hạ được!
Văn Nghệ Sĩ XHCN là phải đi “thâm nhập thực tế” ở khu mỏ than Hồng Quảng, rồi về
Nông trường Bò Ba Vì, lại đi Nông trường chè Phú Thọ, nên làm gì có điều kiện để
đến nơi hẹn hò của dân Nam Kỳ Quốc!?”
Xuân Vũ cười ha hả, mai mỉa trả lời.
Tôi ngồi bệt xuống sân gạch cùng uống bia hơi, nhai đậụ phộng rang muối, với
Xuân Vũ và nhà văn Nguyễn Tuân.
-
“Tôi đã gặp cậu vài lần tại nhà của anh Sáu Giàu (tức Trần Văn Giàu), không biết
có đúng hay không nhỉ?”
-
Nhà văn Nguyẽn Tuân hỏi tôi.
-
“Chính hắn, chớ còn ai nữa... Hắn là đệ tử sử học đắc ý nhất của giáo sư Trần
Văn Giàu mà!”
Xuân Vũ chen vào nói ồm ồm.
-
“Xuân Vũ nói đùa đấy, anh đừng tin lời của hắn! Đúng là tôi đã có gặp anh tại
nhà ông Sáu Giàu đôi ba lần... »
Đáp lời của nhà văn Nguyễn Tuân xong, tôi day qua trả đũa Xuân Vũ:
-
«Anh đã thiếu nợ của mụ tú nào, mà sao mái tóc “kiểu Nguyễn Tuân” của bạn đã bị
cắt đi mất rồi. Thật là xấu hổ quá!”
Xuân Vũ vẫn cười vui vẻ, trả lời hóm hỉnh rằng:
-
«Tớ mắc nợ của mụ tú Sáu Búa (ám chỉ Lê Đức Thọ) nên đã bị mụ ấy lấy cây búa cạo
đến sạch sẽ... »
Rồi Xuân Vũ đổi giọng nhè nhè hỏi tôi:
-
«Này, ông đã từng ăn phở Tư Lùn lần nào chưả”
Tôi lắc đầu, đáp :
-
“Không biết phở Tư Lùn ở đâu, làm sao mò đến để ăn cho được?”
-
“Được, bây giờ hỏi thiệt, ông còn tiền không? Nếu còn, thì nhờ nhà văn sành ăn
phở (Xuân Vũ chỉ Nguyễn Tuân) sẽ dẫn chúng ta đi ăn phở Tư Lùn.”
Tôi gật đầu đồng ý! Quán phở Tư Lùn nằm tại đầu đường Yết Kiêu, là một trong vài
hiệu phở nổi tiếng của Hà Nội xưa. Nhờ có chuyện đi ăn phở Tư Lùn mà tôi mới
biết chổ ở của nhà văn Nguyễn Tuân, ở trong hẻm Trần Hưng Đạo ngó thẳng qua quán
phở Tư Lùn. Có lẽ nhờ có quán phở này mà Nguyễn Tuân đã nổi danh là người viết
về Phở hay nhất trong văn học, không ai sánh bằng!
Lần ăn phở tại quán phở Tư Lùn cùng với Xuân Vũ và nhà văn Nguyễn Tuân, cũng là
lần cuối tôi hội ngộ với Xuân Vũ ở Hà Nội!
Bốn năm sau (1964-1967)
Một đêm mưa tầm tã, tại Xóm Mới, một xóm nhỏ nằm bên ven sông Vàm Cỏ đông, thuộc
địa phận huyện Lò Gò, tỉnh Tây Ninh, mà bên kia sông là lãnh thổ Campuchia, địa
phận tỉnh Prây-Ven, tôi lại gặp Xuân Vũ trong quán hủ tiếu Ba Nhỏ (Tên của ông
chủ quán đã được khách đến ăn đặt thành tên quán)
Tôi vừa bước vô quán vừa cởi áo mưa ra, thì nghe tiếng của ai đó, rất quen, đang
ngồi ăn trong quán, gọi thật to:
-
“Sáu Tùng, tại sao lại gặp ông ở tại mật khu này nữa vậỷ Tôi đã trốn nợ đời...
từ thủ đô ngàn năm văn vật chạy vô đây! Còn ông chắc chạy trốn nợ tình của các
cô gái Hà Thành chớ gì?”
Cả
quán cười ồ... Tôi xoay người lại nhìn: Hóa ra không ai khác là anh chàng nhà
văn tài hoa, hay nói đùa họ Bùi, tên Xuân Vũ. Tôi liền “phản pháo” ngay, rằng:
-
«Ông Sáu Búa (ám chỉ Lê Đức Thọ), chủ nợ của anh, ủy nhiệm cho tôi vào tận “rừng
sâu núi hiểm” này, để đòi cho được món “nợ tư tưởng” Révisionnisme (Chủ nghĩa
xét lại hiện đại) đó nghe!»
-
“Tớ đã vô tận đây rồi, thì có đến 12 búa tớ cũng chẳng sợ, nên 6 Búa đâu có
nghĩa gì đối với tớ! Nhưng tôi chỉ ngại ông đòi tiền 2 tô phở Tư Lùn thôi... »
Xuân Vũ cười trả lời một cách thoái mái. Rồi anh ta hỏi tôi:
-
«Ông vào đây hồi nào vậỷ”
Tôi kéo ghế ngồi vào cùng bàn với Xuân Vũ, rồi trả lời gọn lỏn rằng:
-
Từ mùa khô năm 1964.
Tôi hỏi lại anh ta:
-
«Còn anh, vào đây từ lúc nàỏ”
-
“Như vậy, anh là “cựu binh”! Còn tôi vừa mới sạch mùi “tân binh”, 2 năm!”
Xuân Vũ vừa trả lời vừa chỉ vào bộ quần áo ‘Giải phóng quân” của anh đang mặc.
Lúc này, tôi mới chú ý: Về bên ngoài, Xuân Vũ bây giờ không phải như nhà văn
Xuân Vũ ở Hà Nội, mà hình như anh đã thay đổi hoàn toàn! Nước da của anh đã xạm
màu sốt rét, sau 2 năm lăn lộn trong chiến khu miền Đông “rừng thiêng nước độc”.
Mái tóc “kiểu tóc Nguyễn Tuân” đã biến mất, nhường cho mái tóc “hớt cua”thật
ngắn. Xuân Vũ đã biến thành một sĩ quan giải phóng về hình thức, với bộ quân
phục màu xanh lá cây, đầu đội nón tai bèo, đeo súng nhỏ K.54 xề xệ bên hông
phải, treo lủng lẳng trên giây ceinture màu vàng.
-
«Bây giờ, anh đúng là một CHIẾN SĨ VĂN NGHỆ GIẢI PHÓNG trên chiến trường Nam bộ
rồi đó!”
Tôi nói với giọng pha trò.
-
“Cám ơn anh đã tặng cho “danh hiệu cao quí” đó. Nhưng không biết tôi có làm tròn
nhiệm vụ “vinh quang nặng nề đó hay không?”
Xuân Vũ cười mỉm, nói với giọng đùa cợt
Sau khi ăn hủ tiếu xong, mưa rừng cũng đã tạnh hẳn, tôi kéo Xuân Vũ ra bờ sông
vắng để tâm sự. Xuân Vũ cho biết: Chính anh tự nguyện xin đi B, và vận động sự
ủng hộ của Đảng đoàn Văn nghệ mãi, mới được Ban Tổ chức Trung Ương chấp thuận Về
tới Trung ương cục, anh được phân công về Tiểu ban Văn nghệ, trực thuộc Ban
Tuyên Huấn do Trần Bạch Đằng phụ trách. Xuân Vũ cũng cho biết: Anh đã gặp được
bà Nguyễn Thị Định, và bà ấy đã đề nghị anh nên về quê hương Bến Tre, lấy tài
liệu sống để viết một tác phẩm lịch sử mang tên “Bến Tre, Ngọn Cờ Đầu Của Phong
Trào Đồng Khởi”, do bà ấy lãnh đạo hồi 1959-1960. Vì vậy, tháng tới anh sẽ về
Bến Tre với sự giới thiệu trực tiếp của bà Nguyễn Thị Định- Phó Tư Lệnh Bộ Chỉ
Huy Quân Sự Miền.
-
“Tôi tin rằng, thông qua chuyén đi về quê hương Đồng Khởi, cũng là quê hương của
tôi lần này, sẽ có chất liệu đầy đủ cho tôi sáng tạo nên một tác phẩm có giá trị
cao hơn cuốn Hòn Đất của Anh Đức!”
Xuân Vũ nói rất hứng khởi và tràn đầy sự tự tin!
-
“Tôi cũng hy vọng anh sáng tạo được một tác phẩm bất hủ cho nền văn học giải
phóng! Nhưng tôi e anh sẽ không hài lòng trước một thực tế không giống như những
ai đã kể về Đồng Khởi đâu!”
Tôi nói một cách dè dặt.
Xuân Vũ tỏ vẻ ngạc nhiên, trầm ngâm... rồi hỏi:
-
“Anh đã biết được sự thật thế nào về cuộc Đồng khởi Bến Tre? Nhưng dù sự thật có
phũ phàng đến thế nào... tôi cũng phải về quê nhà một lần, để trang trải vấn đề
tình cảm, và kiểm chứng thực tế luôn...»
Sau đó, Xuân Vũ hỏi tôi:
-
«Hiện nay, anh công tác ở đâu? Tôi muốn liên lạc với anh thì làm thế nàỏ”.
-
“Không dấu gì anh, tôi công tác ở ngành Tình Báo, nên không tiện cho địa chỉ cơ
quan, vì sẽ vi phạm kỷ luật đã quy định! Nhưng khi nào anh muốn gặp tôi thì cứ
viết thư hẹn, và đưa cho anh Ba Nhỏ, chủ quán hủ tiếu mà chúng ta vừa ăn đó. Anh
chỉ nói: “Nhờ anh chuyển gấp cho anh Sáu Kiếng” là tôi nhận được ngay! Sáu Kiếng
là tên của tôi hiện nay”.
Tôi không thể nói thật cho Xuân Vũ biết: “Ba Nhỏ là mật hộ viên của tôi”. Và
càng phải giữ bí mật về thân phận của tôi hiện nay. Từ năm 1964, tôi không phải
là tôi của những năm trong kháng chiến chống Pháp, hay là những năm đầu tập kết
ra ở Hà Nội nữa! Trên lĩnh vực chính trị, hiện giờ tôi đã đứng trên chiến tuyến
của Mặt Trận Quốc Gia đối đầu với Mặt Trận Cộng Sản (núp dưới danh nghĩa Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam). Vả lại, tôi đang “nằm vùng” trong
hàng ngũ Quân Giải Phóng, khoát áo Cán bộ Giải phóng, mạo danh là đồng chí của
Xuân Vũ, nên phải cảnh giác với mọi người chung quanh, kể cả người thân!
Tôi muốn lôi kéo Xuân Vũ về với chính nghĩa Quốc Gia Dân Tộc, để anh có điều
kiện phát huy đến đỉnh cao về năng lực sáng tạo văn học của anh. Nhưng tôi phải
kiên nhẫn chờ đợi cơ hội thuận lợi, để sau khi anh đã “va đầu vào thực tế phũ
phàng” của cái gọi là “Đồng Khởi Bến Tre”, mà Hà Nội đã thần thánh hóa vai trò
“vĩ đại của chị Ba Định”, trong việc chỉ huy “đoàn quân vũ trang bằng súng bặp
dừa” đã đánh thắng cả “sư đoàn Mỹ- Ngụy” (!?) Tôi tin tưởng anh sẽ tỉnh ngộ
nhanh, bởi vì Xuân Vũ vốn là môt nhà văn thức tỉnh... và đến lúc ấy, tôi chỉ
“rót thêm một giọt nước vào ly nước đã đầy” là ly nước của anh sẽ tràn ra, không
ai ngăn chặn được!
Cuối năm 1968.
Tôi đang ngồi tại văn phòng của A17 (mật danh của Sở Điệp Báo) tại đầu đường Mạc
Đỉnh Chi (Sàigòn), thì nhận được một bản báo cáo của Ty An Ninh Bến Tre, cho
biết: «Nhà văn Xuân Vũ đã ra trình diện với tư cách là người TÌM TỰ DO!” Tôi rất
vui khi nhận được tin Xuân Vũ đã tự thức tỉnh, từ bỏ hàng ngũ cộng sản, trở về
với Chính Nghĩa Quốc Gia, không vì sợ gian khổ, cũng không phải vì bã lợi danh,
mà vì Lý Tưởng Tự Do, vì sự nghiệp sáng tác chân chính của anh!
Ngày hôm sau, tôi điện thoại xuống Ty An Ninh Bến Tre hỏi thăm tình trạng của
Xuân Vũ, thì được biết Ban Q. (Ban Thẩm Vấn) của số 3 Bạch Đằng, đã bốc Xuân Vũ
về Sàigòn ngay trước khi tôi gọi điện thoại. Vậy là tôi có thể đến gặp Xuân Vũ
dưới hình thức “Thẩm vấn để khai thác tin tức”- Bởi vì theo nguyên tắc bảo toàn
an ninh, ngăn chặn những phần tử “Chiêu Hồi Giả”, cho nên bất cứ ai ở trong hàng
ngũ cộng sản trở về với quốc gia, đều phải qua giai đoạn Thẩm Vấn ở địa phương
hoặc ở Trung ương (tùy theo chức vụ và vai trò của họ). Tôi muốn gặp Xuân Vũ
cũng phải tôn trọng nguyên tắc đó! Cho nên, tôi phải gọi điện thoại cho Ban Q.
xin đăng ký thẩm vấn “nhà văn Tìm Tự Do Xuân Vũ”, nhưng được trả lời rằng: «Dù
là ưu tiên 1 (tức trong nội bộ Phủ Đặc ủy) nhưng cũng phải đợi đến khi Ban Q. và
CIA Sàigòn thẩm vấn xong, thì mới xếp lịch thẩm vấn cho A17 ». Tôi đành phải
chờ!
Một tháng sau. Vào những ngày cận Tết Kỷ Dậu (2-1969), tôi được Ban Q. sắp xếp
cho gặp nhà văn Xuân Vũ. Tôi gặp Xuân Vũ, không bằng tư cách là Thẩm Vấn Viên,
mà với tư cách là bạn hữu. Vậy là, trong vòng 20 năm (1950-1970) tôi chỉ gặp
được Xuân Vũ có 5 lần - Một lần trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1950). Hai
lần ở Hà Nội (1960, 1963). Một lần trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1967). Và
lần này tại Sàigòn, thủ đô của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, một vùng trời Tự Do
(1969). Rõ ràng, tôi và nhà văn Xuân Vũ đã có “Duyên Kỳ Ngộ” của hai Học Sinh
yêu nước “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu’, của hai Thanh Niên có mộng ước
“cầm bút viết lên những nét điển hình của con người Việt Nam, của tâm hồn Việt
Nam”; và của hai Chiến Sĩ Việt Nam, đã một thời chọn sai lý tưởng cách mạng,
nhưng cũng đã thức tỉnh, chối bỏ chủ nghĩa cộng sản, trở về với chính nghĩa Quốc
Gia Dân Tộc!
Khi gặp tôi tại Sàigòn, Xuân Vũ rất ngạc nhiên. Anh hỏi:
-
«Anh bỏ chiến khu trở về đây hồi nào vậỷ”
Đến lúc này, cả hai chúng tôi đã cùng chung chiến tuyến quốc gia, nên tôi không
cần dấu thân phận thật của tôi nữạ Thế là, chúng tôi cùng đồng cảm về những gì
chúng tôi đã đánh mất trong những năm hoạt động trong hàng ngũ cộng sản, và
những gì mình sẽ đạt được trong cuộc chiến đấu cho lý tưởng Tự do, cho quyền
sống của con người!
Sau thời gian kết thúc giai đoạn thẩm vấn, ngành an ninh đã làm sáng tỏ tư cách
‘Tìm Tự Do” chính đáng của nhà văn Xuân Vũ! Do đó anh đã được Bộ Trưởng Thông
Tin Chiêu Hồi bổ nhiệm vào chức vụ Phó Giám đốc Trung tâm Chiêu hồi (tọa lạc tại
Thị Nghè). Tôi lại bận công vụ trên chiến trường ở Campuchia, nên chúng tôi vẫn
không có điều kiện gặp nhau thường xuyên!
Mãi đến mùa Xuân 1972, khi tôi đã về làm việc luôn ở Sàigòn, tôi mới thường gặp
Xuân Vũ ở Trung tâm Chiêu Hồi. Một hôm, Xuân Vũ tham khảo ý kiến của tôi, rằng:
-
"Tôi vừa hoàn thành tác phẩm “ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN”. Và tôi có ý định đưa đứa con
đầu lòng trong cuộc đổi đời của tôi để tham gia giải Văn Học Nghệ Thuật Quốc Gia
1973, anh thấy thế nàỏ”
-
«Tôi rất tán thành, mặc dù tôi chưa được đọc qua nội dung của tác phẩm. Bởi vì
tôi tin vào văn tài của anh, đặc biệt là cái Subject (Chủ đề) “Đường Đi Không
Đến” đã là một ý tưởng độc đáo rồi! Nhưng tôi khuyên anh nên lấy câu châm ngôn
của dân gian Pháp là “Tout n’est pas bon à dire!” (Không phải điều gì cũng nói
ra được), để làm phương châm duyệt lại tác phẩm của anh, khi nộp cho Ban Chấm
Giảị”
Tôi động viên và góp ý với nhà văn Xuân Vũ
Không biết nhà văn Xuân Vũ có sửa chữa lại hay không? Nhưng tác phẩm “Đường Đi
Không Đến" của anh, đã đạt Giải Thưởng Văn học Nghệ Thuật Quốc Gia năm 1973! Kết
quả đầy vinh quang đó, là do chính tài năng văn học của bản thân Xuân Vũ, cộng
với thực tiễn đã trải qua trong cuộc đời của người chiến sĩ văn nghệ. Nhà văn
Xuân Vũ lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn Miền Nam Tự do, như một ngôi sao
sáng chói!
Từ 1973 đến trước 30-4-1975, nhà văn Xuân Vũ còn cho độc giả miền Nam thưởng
thức thêm 2 tác phẩm nữa của anh : “XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG SƠN” và “ĐẾN MÀ KHÔNG
ĐẾN”. Độc giả Sàigòn có nhiều ý kiến khác nhau về 3 cuốn Hồi Ký của nhà văn Xuân
Vũ (kể cả Đường Đi Không Đến), Nhưng nói chung là “hấp dẫn người đọc!”
Riêng có cuốn “Đến Mà Không Đến” thì có những phản ứng ngầm của một số sĩ quan
An ninh- Chính trị. Họ cho rằng, nhà văn Xuân Vũ, qua tác phẩm “Đến Mà Không
Đến” đã ám thị về “sự thất vọng” của nhà văn đối với các nhà lãnh đạo nền Đệ nhị
Cộng hòa’(?). Khi nghe được dư luận ngầm này, có phần nào bất lợi cho sự nghiệp
sáng tác của nhà văn Xuân Vũ, tôi vội vã đến gặp anh, nhằm mục đích trao đổi ý
kiến, trên tinh thần “bằng hữu chi giao”, nghe bạn “bị oan tình không đành làm
ngơ”!
Khi nghe tôi cho biết dư luận ngầm đó, Xuân Vũ bật cười, nói một cách nghiêm túc
rằng:
-“Kể ra, các vị đó cũng chịu khó đọc hồi ký “Đến Mà Không Đến” của tôi, và có
suy tư về khía cạnh tư tưởng chính trị của nó. Nhưng, pardon (xin lỗi) các vị ấy
đã soi bằng cái kiếng đen, cho nên mới nhìn thấy cái hình thù méo mó của nó!”
Rồi anh hỏi tôi:
-
“Còn theo con mắt của nhà Sử học kiêm Tình báo thì như thế nàỏ”
-
"Anh cho phép tôi nói một cách trung thực nhé! Họ là những người có trách nhiệm
bảo vệ nền an ninh chính trị của quốc gia, do đó họ phải cảnh giác đối với những
tác phẩm văn học có tính bài xích chế độ dưới bất cứ hình thức nào, dù ít hay
nhiều. Cho nên, chúng ta không thể trách họ! “Đến Mà Không Đến” của anh, theo cá
nhân tôi, là phản ánh trung thực sự suy tư của anh đối với thực tiễn mà anh đã
đối diện, mặc dù anh không “vạch mặt chỉ tên”, nhưng ai có trí tuệ đều thấy rõ
là: “Anh đã đến với một chế độ tự do, nhưng anh đã bị thất vọng, và coi như
không đến bến bờ tự do thật sự theo lý tưởng của anh!" Tôi không phản đối sự suy
tư của nhà văn theo chiều hướng nào, hơn nữa tôi cũng tán thành cái logic của
chủ đề tác phẩm! Nhưng tôi xin nhắc lại với anh, trong khi chiến tranh Quốc-
Cộng chưa chấm dứt, thì lúc nào anh cũng phải nhớ câu châm ngôn: ”Tout n’est pas
bon à dire!” Tôi chân thành nói với anh.
Rất tiếc, vì tình hình thời cuộc quá khắc nghiệt, tôi không có diều kiện để gặp
lại nhà văn Xuân Vũ! Lúc này anh làm Biên Tập Viên cho Đài Mẹ Việt Nam. Nhờ đó,
trước ngày 30-4-1975, anh và gia đình đã được Mỹ bốc ra khỏi Miền Nam Việt Nam,
trước khi quân Cộng sản chiếm Sàigòn...
"Nhà văn Xuân Vũ đã thoát khỏi sự trừng phạt nặng nề mang tính chất trả thù của
chế độ cộng sản, đối với những ai chống đối họ! Từ nay, tại THIÊN ĐÀNG TỰ DO của
Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ, anh mặc sức mà sáng tác nên những tác phẩm văn học có
giá trị nhân văn, để đời cho mai sau!”- Tôi thầm nghĩ như vậy, khi biết tin Xuân
Vũ đã bay sang bên kia Đại Tây Dương!
Hai mươi năm sau (1975-1995)
Sau ngày 30-4-1975, tôi bị Cộng sản bắt giam, từ nhà tù Chí Hòa (Sàigòn) đến nhà
ngục Hỏa Lò (Hà Nội), tổng cộng là 15 năm 7 tháng 4 ngày. Nhờ Chính phủ Hoa kỳ
can thiệp (đến 3 lần), chính quyền cộng sản Việt Nam mới chịu tha, với điều kiện
bắt buộc tôi phải ký giấy cam kết rằng: ”Khi ở nước ngoài không được kêu gọi hay
tổ chức chống chính phủ Cộng Hòa XHCN Việt Nam!” Tháng 8-1993, tôi được sang tị
nạn chính trị ở Mỹ theo diện R.D. (Rapid Departure). Và tôi đã định cư ở vùng
Đông Bắc Mỹ từ đó. Nhưng trong hai năm 1994-1995, tôi chưa liên lạc được với nhà
văn Xuân Vũ!
Tết năm Ất Hợi (1995), tôi có dip sang thăm người anh bà con ở Santa Anna
(California), và đi xem chợ Hoa Xuân tại Little Sàigòn, nên tôi mới thấy tên của
nhà văn Xuân Vũ trên các tạp chí Xuân như: “Diễn Đàn Phụ Nữ”, “Quê Hương”... và
một số tác phẩm của Xuân Vũ, mới viết trong 20 năm ở Hoa Kỳ (1975-1995), để trên
kệ sách của nhà sách Văn Nghệ trong chợ Phước Lộc Thọ, như: “Đồng Bằng Gai Góc”
(Hồi ký), “Sông Nước Hậu Giang” (Tiểu thuyết), Dưới Bóng Dừa Xanh” (Tiểu thuyết)
v.v... Tự nhiên trong lòng tôi cảm thấy vui vui, với tâm trạng của một người bất
ngờ nhận được tin bạn cũ. Bởi vậy, khi lật từng trang sách của Xuân Vũ, tôi cảm
thấy như đang “nói chuyện với Xuân Vũ” vậy! Cho nên, tôi tự bảo với lòng mình:
”Thế nào cũng phải tìm cho ra số phone nhà của người bạn cố tri – Nhà văn Xuân
Vũ – để hiểu rõ cuộc sống và nhất là những thành quả sáng tác văn học, mà anh đã
đạt được trong suốt 20 năm lưu vong ở xứ người (?)".
Vào cuối năm 1995, Bác sĩ Huỳnh Chí Thành, người bạn cũ trong thời Nam bộ Kháng
chiến, từ California gọi điện thoại báo cho tôi biết số phone nhà của Xuân Vũ ở
San Antonio (Texas)...
-
“Sau 6 giờ chiều – giờ Texas – ông hãy gọi, vì lúc ấy Xuân Vũ mới có mặt ở nhà!”
Bác sĩ Thành dặn tôi.
Đúng 8 giờ tối hôm đó, tôi gọi điện thoại cho Xuân Vũ.
-
“Hello! Cho tôi nói chuyện với nhà văn Xuân Vũ.”
Tôi nói, khi nghe bên kia đầu giây có người nhấc điện thoại...
-
“Xuân Vũ đây! Xin lỗi, ai ở bên kia đầu giây?”
Tiếng của Xuân Vũ tuy đã khàn đục của người già, nhưng tôi vẫn nhận ra cái âm
điệu của anh ta.
-
“Sáu Tùng đây! Anh không nhận ra tiếng nói của tôi hay sao”
-
“Xin lỗi! Tôi không nhận ra tiếng nói của anh! Tên của anh, tôi nghe quen lắm,
nhưng vẫn chưa nhớ là gặp ở đâu? Anh nhắc dùm lại một vài kỷ niệm giữa chúng ta,
có được không?”
- “Anh và nhà văn Nguyẽn Tuân dẫn tôi đi ăn Phở Tư Lùn ở đầu phố Yết Kiêu Hà
Nội, có nhớ không?”
-“A! nhà sử học kiêm nhà tình báo... phải không?”
Xuân Vũ ngưng vài giây, rồi mới thắc mắc hỏi:
-
«Tại sao tiếng nói của ông nghe ngọng nghịu khác thường vậy”
Tôi mới kể tóm tắt cho Xuân Vũ nghe về cảnh khổ của tôi trong hơn 15 năm tù, và
bị tai biến mạch máu não sau khi ra tù, nên tiếng nói mới bị ngọng nghịu như
vậy.
-
“Ông còn sống sót và được sang định cư ở Mỹ, có thể coi là một cuộc tái sinh.
Chắc chắn rằng, ông sẽ thọ hơn 20 năm nữa đó!”
Sau khi động viên tôi, Xuân Vũ nói tiếp:
-
"Ông cứ coi chuyện ở tù của ông như chuyện “Tái ông thất mã” vậy! Bởi vì “cái
vốn tù đày” trong hơn 15 năm của ông, sẽ là chất liệu sống, để ông sáng tạo nên
một tác phẫm bất hủ cho đời rồi đấy!”
-
“Cám ơn sự động viên chí tình của bạn! Nhưng bây giờ tôi muốn biết thành quả 20
năm sáng tác văn học của nhà văn tài hoa của xứ dừa như thế nào? Ông có thể vui
lòng kể sơ qua cho tôi biết được không?”
Tôi thành thật yêu cầu.
-«Ông có biết không? “Tài hoa xứ dừa” hay xứ cau gì nữa, khi lưu vong sang xứ
Coca Cola đều phải “Tay làm hàm nhai”, ăn “Sandwich thì phải vích tối ngày vậy
mà...”
Xuân Vũ cười giòn, vẫn giữ phong cách pha trò như thuở nào.
-
“Sang tới xứ Cờ Hoa, đặc biệt khi đến “Sàigòn Nhỏ” ở vùng “đất ấm tình nồng”
Cali, tôi đã thấy tên ông ở hầu khắp các hiệu sách... Tôi mừng cho ông có đất
dụng võ, bù lại những năm tháng ở Hà Nội...»
Tôi cười, nói nửa đùa nửa thật.
-
«Khi ông xông vào thị trường chữ nghĩa Việt Nam ở hải ngoại, rồi ông mới thấy
giá trị của câu “Văn chương rẻ như bèo”(!). Nhưng, cầm bút là nguồn sống tinh
thần, là nghiệp dĩ của đời mình, giống như “kiếp con tầm thì phải nhả tơ” mà
không đòi hỏi sự bù đắp của xã hội... Vì vậy, mình cứ sáng tác đều đều, không để
cho “cái đầu suy nghĩ” và “cánh tay viết lách” được rảnh rang, phải bắt nó làm
việc, làm việc, và làm việc... cho đến khi trái tim ngừng đập mới thôi. Nhờ sự
cố gắng tối đa như thế nên suốt trong 20 năm qua, tôi cũng đạt được một thành
quả gọi là “không phụ lòng của độc giả mến mộ” nhà văn xứ dừa này! ”Xuân Vũ tâm
sự với một giọng không vui không buồn.
Nhà văn Xuân Vũ khiêm tốn nên không khoe thành quả văn học của anh với tôi.
Nhưng tôi vẫn biết được anh đã miệt mài sáng tác, với một năng lực sáng tạo phi
thường, rất hiếm thấy trong số nhà văn cùng lứa tuổi với anh, qua số lượng sách
của anh đã được các nhà xuất bản ở hải ngoại ấn hành trong vòng 20 năm qua. Từ
1975 đến 1995, nhà văn Xuân Vũ đã trình Làng Văn Hải ngoại với hơn 40 tác phẩm
văn học, khoảng chừng 7.000 trang (gồm có Hồi ký, Tiểu thuyết, Khảo luận...)
Tính trung bình, mỗi năm, nhà văn Xuân Vũ cho ra đời 2 tác phẩm văn học, trong
hoàn cảnh rất chật vật về thời gian, vì vừa lao động kiếm tiền để đảm bảo đời
sống của gia đình, vừa tranh thủ thời gian nghỉ ngơi để viết văn!
Trong một bức thư gửi cho tôi (tháng 4-1996), nhà văn có tâm tình như sau: ”Viết
văn đối với tôi là một việc cao quí gian khổ và đau khổ, lắm khi đầy đe dọa nữa!
Nhưng nếu chết đi mà còn được đầu thai theo thuyết luân hồi của nhà Phật, thì
tôi xin tiếp tục cầm bút để hoàn thành những gì còn bỏ dở ở kiếp này... Ôi! Cây
bút nhỏ bé gầy gò, nhưng nếu không có nó thì nhân loại chỉ là một loài súc vật
bò lê trong vũng bùn ngàn năm!”
Qua đoạn thư trên, chúng ta – những độc giả yêu quí nhà văn Xuân Vũ – đều có thể
nhận thấy rõ ràng rằng: ”Nhà văn Xuân Vũ đã vượt qua bao khó khăn và gian nguy
để hoàn thành những tác phẩm văn học cho đời! Cho dù trong hoàn cảnh nào, nghiệp
văn vẫn là lý tưởng cao cả của Xuân Vũ! Anh không chỉ muốn viết văn ở kiếp này,
mà còn muốn tiếp tục viết văn ở kiếp sau nữa. Bởi vì Xuân Vũ đã nhìn thấy VĂN
HỌC ĐÃ GÓP PHẦN SÁNG TẠO NÊN NỀN VĂN MINH CỦA NHÂN LOẠI!
Từ
1996 đến 2003, chúng tôi thường diện đàm với nhau, chủ yếu là thăm hỏi sức khỏe
và trao đổi về những vấn đề thời sự chính trị ở quê hương Việt Nam. Còn công
việc văn chương thì hầu như không có trao đổi, bởi vì chúng tôi, mỗi người theo
đuổi một lĩnh vực chuyên môn, tuy cùng ngành khoa học xã hội, nhưng lại khác
nhau về phương pháp luận và cách thể hiện – Xuân Vũ theo đuổi sự nghiệp sáng tác
văn học. Còn tôi thì chuyên tâm nghiên cứu lịch sử.
Có
lần, tôi ngỏ ý muốn có NHỮNG TÁC PHẨM ĐẮC Ý NHẤT CỦA XUÂN VŨ, để tôi thử viết
một tiểu luận VỀ GIÁ TRỊ VĂN HỌC CỦA XUÂN VŨ. Và nhà văn Xuân Vũ đã trả lời cho
tôi như sau: ”Nếu bạn có nhã ý muốn điểm sách của tôi thì để thong thả tôi tìm
đủ bộ gởi cho bạn... rồi bạn hãy viết mới dzui (đúng chữ của Xuân Vũ.)”. Vì vậy
tôi đành phải chờ (?).
Tháng 8 năm 1998, nghe tin bà xã tôi qua đời trong một tai nạn bất ngờ (!) Anh
Xuân Vũ đã gọi điện thoại chia buồn, và an ủi tôi. Tôi ghi nhớ mãi, không thể
nào quên câu nói của anh, rằng:
-
“Chỉ có hai vợ chồng lưu vong nơi đất khách, bà xã đột ngột qua đời không một
lời trối trăn, thật là quá bi thảm cho anh! Chắc hẳn là bạn rất cô đơn trong
những ngày tháng sắp tới... Nhưng tôi tin tưởng bạn, vốn là một chiến sĩ kiên
cường trong chiến tranh, đã từng ngồi tù cộng sản 15 năm, không thể dễ dàng bị
gục ngã! Mong bạn sẽ dùng ngòi bút bình luận chính trị và khảo luận lịch sử, làm
vũ khí tinh thần, để đẩy lùi sự cô đơn, và tạo nguồn vui hạnh phúc bằng sự sáng
tạo nên những tác phẩm cho mai sau!”
-
Cám ơn anh Xuân Vũ (và bạn bè xa gần) đã nâng đỡ về tinh thần cho tôi rất nhiều!
Nhờ vậy, tôi đã vượt qua nỗi buồn cô đơn, tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và biên
soạn lịch sử Việt Nam...
Cuối năm 1998, nhà văn Xuân Vũ có gửi cho tôi 4 cuốn sách của anh vừa mới phát
hành. Đó là: cuốn “Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như tôi Biết” (Hồi ký – Tập II), cuốn
“Những Bậc Thầy Của Tôi” (Khảo luận) và 2 cuốn “2000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi”
(Tập 5 & 6 – Hồi Ký, viết chung với Dương Đình Lôi). Tôi đã đọc ngấu nghiến
những tác phẩm mới ra đời của Xuân Vũ... trong mấy ngày đêm, với tổng số hơn
1.700 trang.
Đọc xong các tác phẩm mới ra đời của nhà văn 69 tuổi (1930-1998) – Xuân Vũ, tôi
phải thầm khâm phục sức sáng tác của anh! Nếu mới đọc qua đầu đề cuốn Hồi Ký
“2.000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi”, bạn đọc sẽ có cảm giác đầu tiên đây chỉ là
những “chuyện đánh nhau”, ngán chết (!). Nhưng không, đây là một bức tranh về
những cuộc đời trong một xã hội ở thời chiến tranh – Hỉ, Nộ, Ái, Ố... có đủ cả,
được diễn tả bởi một ngòi bút diêu luyện, của một nhà văn biết chọn lọc những
câu chuyện điển hình, tạo nên một “xã hội Củ Chi” rất hấp dẫn!
Còn cuốn Hồi ký về “Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như Tôi Biết”, là một tác phẩm không
chỉ có giá trị về tư liệu “Lịch Sử Văn Học Việt Nam Hiện Đại”, mà còn có giá trị
phê phán sự lãnh đạo độc tài của Đảng CSVN trong lĩnh vực văn học! Các bạn hãy
đọc và nghiền ngẫm những lời tâm sự sau đây của nhà văn Xuân Vũ: “Cuộc diện đấu
tranh giữa chính nghĩa Quốc gia và tà thuyết Cộng sản vong bản đang đến hồi
quyết liệt, mất còn. Kẻ viết quyển sách này kính chúc các văn nghệ sĩ trong và
ngoài nước hãy đoàn kết và thực hành đúng tinh thần cao cả của nhà nho tiền bối
Nguyễn Đình Chiểu: “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. (sách đã dẫn, trong “Đôi
Lời Tác Giả’).
Đặc biệt cuốn khảo luận “Những Bậc Thầy Của Tôi”, nhà văn Xuân Vũ đã gửi gấm một
tâm sự nuối tiếc về ước vọng của nhà văn, rằng: «Tất cả cuộc sống xưa bình
thường bỗng nhiên trở thành kỷ niệm. Tôi còn nhớ nhiều người quá mà không viết
nổi nữa. Không có nhà văn nào khi chết mà đã hoàn thành tất cả những ý định của
mình. Cuốn sách này coi như “trạm nghỉ chân” cuối cùng, nghỉ xong rồi ngủ luôn
không đi đâu nữa hết...” (Sách đã dẫn, trang IX, trong bức thư gửi cho Nxb của
Xuân Vũ).
Đọc được tâm sự này của Xuân Vũ, tự nhiên tôi có một cảm xúc buồn buồn. Tôi
nghĩ: “Chắc người bạn già của tôi đã không còn đủ sức khỏe để thực hiện những
tác phẩm văn học đã tích lũy sẵn trong tâm hồn nghệ sĩ của anh! Anh đã có hoài
bão làm một nhà văn chân chính, như nhà văn Nga Piotr Pavlenko đã từng nói: ”Văn
chân chính phải dám tiêm vào mạch máu của dân tộc những nhân tố mới bằng ngòi
bút của mình.” Nhưng giờ đây, lẽ nào Xuân Vũ lại gác bút ở cuối đường? ” Mặt
khác, tôi lại nghĩ: ”Hay ông bạn già của tôi – chỉ còn 1 tuổi nữa là THẤT THẬP
rồi - đã lâm bệnh nặng, đoán trước được thời gian chia tay vĩnh viễn với gia
đình và bạn bè? Nhưng Xuân Vũ không muốn cho bè bạn bận lòng, nên đã không cho
biết về bệnh tình của mình?”
Tuy nhiên, trong thực tế của 5 năm qua (1999-2003) nhà văn Xuân Vũ vẫn tiếp tục
viết không ngừng nghỉ, với một năng lực phi thường, đối với một thể trạng bệnh
hoạn của anh! Anh viết truyện ngắn, truyện dài, phiếm luận... Và sửa chữa, hoàn
thành những tác phẩm chưa in.... Anh có mặt hầu khắp trên các tạp chí Việt ngữ ở
Mỹ, ở Canada, ở Pháp v.v... Đâu đâu, trên thế giới này, cộng đồng người Việt hải
ngoại đều đọc được những sáng tác văn học mới nhất của nhà văn Xuân Vũ. Hai
truyện dài gần đây nhất của nhà văn Xuân Vũ, đang đăng từng kỳ trên bán nguyệt
san Tự Do của nữ văn sĩ Mặc Bích (Houston – Texas), là truyện “THẤT SƠN, ĐỊA
LINH NHÂN KIỆT”, và truyện “QUÊ NỘI QUÊ NGOẠI”, có thể nói là rất hấp dẫn người
đọc!
Trong tuần đầu tháng 11-2003, anh đã chủ động gọi điện thoại cho tôi đến 2 lần.
Có thể nói, đây là một hiện tượng bất bình thường suốt trong 8 năm nay
(1995-2003), trong sự giao tiếp bằng điện thoại giữa Xuân Vũ với tôi!
Lần thứ nhất, anh động viên tôi nên hoàn thành càng sớm càng tốt tác phẩm: Hồi
ký của “NGƯỜI TÙ BỊ ĐỔI TÊN.” Anh nói như sau:
-“Hồi ký của “Người Tù Bị Đổi Tên” là một câu chuyện tình báo, nhưng đã hàm chứa
một giai đoạn lịch sử đấu tranh giữa Chính Nghĩa và Phi Nghĩa, của dân tộc Việt
Nam (1945-1975), thật sự hấp dẫn người đọc, vì mỗi lần tôi đọc từng kỳ trên bán
nguyệt san Tự Do của bà Mặc Bích, là có tâm lý nôn nóng muốn xem tiếp, để biết
câu chuyện sẽ diễn biến và kết cục ra sao. Vậy ông dự định chừng nào mới cho ra
mắt bạn đọc quyển Hồi Ký “Rút Ruột” đó?”
-
“Cám ơn nhà văn tài hoa đã quá khen để động viên tôi! Nhưng tôi không có sức
viết nhanh như ông đâu! Tôi sẽ cố gắng hoàn thành trong năm 2004 hoặc 2005!”
Tôi trả lời một cách dè dặt, đồng thời hỏi lại Xuân Vũ:
-
”Tính từ sau tháng 4-1975 đến cuối năm 2003, ông đã sáng tác được bao nhiêu tác
phẩm rồỉ”
-
“Thú thật với ông, tôi không nhớ chính xác đâu! Độ chừng gần 80 tác phẩm gì đó!
Số lượng nhiều mà nội dung dở ẹt thì cũng vứt vào xọt rác thôi. Cái chính là
chất lượng của tác phẩm mới là điều đáng nói với một nhà văn chân chính! Có phải
thế không bạn?”
Xuân Vũ nói thật nghiêm túc.
Lần thứ hai, trong cuộc điện đàm với tôi, nhà văn Xuân Vũ đã tiết lộ một tâm sự
“buồn vạn kiếp” của thân phận lưu vong, ký sinh trên xứ lạ quê người!
-
“Ông đã từng đến Bến Tre, nhưng không biết ông đã từng đến Quê Ngoại của tôi hay
chưa? Quê ngọai tôi là một vùng đất nằm ven con rạch chảy suốt bề ngang Cù Lao
Minh, và chảy qua hai phố chợ Tân Hương và Cầu Mống. Sau nhà ngoại tôi là một
cánh đồng rộng trải dài tới xóm Cái Bần thuộc làng Đại Điền, một làng trù phú,
có những nhà giàu nhất nhì tỉnh Bến Tre»
Xuân Vũ vừa kể đến đó, tôi liền cắt ngang, hỏi:
-
“Quyển tiểu thuyết “Xóm Cái Bần” của ông, có phải là viết về xóm Cái Bần mà ông
đang kể đó không?”
-
“Đúng, cái xóm đó! Ông có biết không, quê ngoại đối với tôi là một bài thơ dài,
một thiên hồi ký vô tận, không tài nào viết ra nổi! Tới chết, tôi vẫn còn mang
theo những hình tượng đẹp đẽ về một miền quê, nơi tôi cất lên tiếng khóc chào
đời trong một ngôi nhà xưa u tịch. Đối với tôi, không có mảnh đất nào đẹp bằng
Quê Ngoại... Đó là mảnh trời riêng của tôi, không thể tìm đâu ra, mảnh trời
riêng ấy, trên cõi đời này!”
Xuân Vũ thở dài, nuối tiếc...
-
"Hay là ông cố gắng sắp xếp đi về thăm Quê Ngoại một chuyến, để khỏi ân hận khi
vĩnh viễn nằm xuống trên đất lạ!”
Tôi thành tâm khuyên bạn.
-
“Bác sĩ Huỳnh Chí Thành ở Cali cũng nhiều lần khuyên tôi như ông vừa khuyên
vậy... Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ rồi: ”Chính quyền Cộng sản sẽ không chấp nhận
cho nhà văn chống cộng, như Xuân Vũ, được tự do trở về thăm Quê Ngoại đâu!”
Xuân Vũ cười một cách chua chát.
Bẳng đi một thời gian, khoảng hơn một tháng, tôi và nhà văn Xuân Vũ không điện
đàm với nhau...
Một đêm cuối tháng 12-2003, tôi nhận đươc điện thoại từ Cali, Bác sĩ Huỳnh Chí
Thành báo hung tin: ”Xuân Vũ đang trong tình trạng hôn mê bất tỉnh, và phải thở
bằng bình dưỡng khí!”
-
“Nhắm Xuân Vũ có vượt qua được trận hung hiểm này hay không?”
Tôi sốt ruột hỏi.
-
“Xem mòi khó khăn lắm! Chúng ta đành phải cầu nguyện cho anh ta, vậy thôi!”
Bác sĩ Huỳnh Chí Thành thở dài...
-
”Bạn bè cùng trang lứa với chúng mình đã lần lượt xếp hàng đi về bên kia thế
giới hết rồi! Chừng nào sẽ đến chúng ta đâỷ”
Tôi bình thản hỏi.
-
“Thôi thì nguyện ước nào chưa thực hiện được, phải tranh thủ thực hiện đi! Nếu
không, chắc chắn sẽ mang hận xuống dưói tuyền đài chớ biết làm sao?”
Huỳnh Chí Thành xúc động nói.
Đêm nhận được hung tin về Xuân Vũ, tôi cứ trằn trọc, không ngủ được! Vẫn biết
rằng: "Ai cũng không tránh được cửa TỬ!” nhưng khi nghe bạn bè đang bước vào cửa
đó, thì lòng mình lại không dằn được nỗi niềm bi thương cho số phận của con
người, trong đó có chính mình!
Tôi nghĩ nhiều về Xuân Vũ...
Anh, quả thật là một nhà văn có sức sáng tác khác thường! Chỉ trong vòng 8 năm
gần dây (1996-2003), mỗi năm nhà văn tuổi 70 này đã cho ra đời trung bình là 4
tác phẩm, với khoảng trên dưới 1.000 trang. Như vậy, so với 20 năm đầu ở hải
ngoại (1975-1995), tốc độ sáng tác của Xuân Vũ đã tăng lên gấp đôi, trong khi
tuổi càng già hơn, sức khoẻ càng yếu hơn. Nhưng, văn tài vẫn không sút kém, mà
còn có chiều sâu tâm hồn hơn, bắt kịp hơi thở của thời đại hôm nay – Thế kỷ 21!
Trong hơn một năm nay (từ tháng 4-2002), nhà văn Xuân Vũ đã giúp cho tạp chí
Phương Đông, do nhà báo Việt Hùng chủ trương, cơ sở tại thành phố Lowell thuộc
tiểu bang Massachusetts, làm “CAI VƯỜN VƯỜN HOA PHƯƠNG ĐÔNG”. Có người cho rằng,
đây chỉ là một việc làm có tính chất “tếu vui” cho qua những ngày cuối đời của
nhà văn Xuân Vũ mà thôi (?) Tôi cho đó là một thành kiến sai lầm! Theo dõi mục
“Vườn Hoa Phương Đông” trong suốt 21 tạp chí (Từ tháng 4-2002 đến tháng
12-2003), tôi nhận rõ mục đích cao đẹp trong việc làm “Cai Vườn” của nhà văn
Xuân Vũ, là: Khuyến khích những ai thích viết văn thì cứ mạnh dạn viết (như Cai
Vườn Xuân Vũ đã nói: ”Ai viết được một bức thư thì có thể viết văn được...”);
làm cho mọi người không còn có mặc cảm “múa rìu qua mắt thợ”! Nhờ truyền bá tinh
thần “Văn Học Đại Chúng” đó, nên đã có nhiều tên tuổi lạ, nhiều bạn trẻ thích
viết văn làm thơ, đã mạnh dạn xuất hiện trên “Vườn Hoa Phương Đông”. Qua đó,
giới văn học hải ngoại có thể phát hiện ra những văn tài mới... Một ông bạn già,
bạn đọc thường xuyên của tạp chí Phương Đông, có nói với tôi rằng: ”Từ ngày có
Xuân Vũ xuất hiện trong mục Vườn Hoa Phương Đông, nội dung của tạp chí Phương
Đông có phàn tươi mát và rôm rả, hấp dẫn người đọc hơn!”. Vậy, Vườn Hoa Phương
Đông, nếu không có Xuân Vũ làm Cai Vườn, thì tương lai sẽ ra saỏ
Tối ngày 1-1-2004, tôi nhận được liền 2 cú điện thoại: Một của nhà báo Việt Hùng
ở Massachusetts, một của Bác sĩ Huỳnh Chí Thành ở California, đều thông báo TIN
BUỒN: ”XUÂN VŨ ĐÃ VĨNH VIỄN XA CHÚNG TA RỒI!”
Tôi lặng người... và chỉ thốt ra một câu từ cõi lòng của người bạn cố tri, một
thân phận lưu vong nơi xứ người, thật sự mến mộ nhà văn:
«XUÂN VŨ–MỘT NGÔI SAO VĂN HỌC ĐÃ TẮT!»
Kính cẩn nghiêng mình tiễn Bạn Xuân Vũ đi về bên kia thế giới trong sự an bình,
vui vẻ. Thành tâm chúc Bạn Xuân Vũ đạt được ý nguyện, như anh đã tâm sự với tôi,
là «sẽ tiếp tục Sự Nghiệp Văn Chương ở kiếp sau, nếu có luân hồỉ»
Đêm anh đi...lòng tôi lạnh giá… Vẫn còn đây những kỷ niệm xưa rồi.
Đêm anh đi...tuyết rơi phủ trắng… Những ngày tới não nuột lòng tôi.
Đông Bắc Hoa Kỳ! Một đêm đầu tháng 1-2004
Lê
Tùng Minh