85 NĂM BÀI VỌNG CỔ RA
ĐỜI
Đỗ Dũng
Từ trong quá khứ đến hiện
tại, bản vọng cổ luôn được xem là
bản chủ lực của nhạc tài tử cải
lương. Cho đến nay nó như một vị hoàng
đế trong các cuộc chơi đờn ca tài tử và
cả trên sân khấu cải lương.
Buổi b́nh minh dạ cổ
Ai cũng biết bản vọng cổ do nhạc
sĩ Cao Văn Lầu sáng tác tại thị xă Bạc Liêu
.Ban đầu có tên Dạ
cổ, kế đó là Dạ cổ hoài lang và nay là bài vọng cổ,
với từng giai đoạn được nới
rộng tiết tấu.
Nhạc sĩ Cao Văn
Lầu sinh năm 1892, tại làng Thuận Lễ,
tổng Cửu Cư hạ, nay là xă Thuận Mỹ - Châu
Thành - Long An. Ông mất ngày 13.08.1976 (âm lịch) tại
thị xă Bạc Liêu mà ông chọn làm quê hương thứ
hai, nơi đă khai sinh ra bản vọng cổ. Thân
phụ của ông cũng là nghệ nhân – Hương
nhạc chỉ huy ban nhạc lễ trong làng, tên là Cao
Văn Giỏi (Chín Giỏi). Ở vào cái thời mà thực
dân và phong kiến đàn áp dân nghèo, người mang nặng
kiếp tằm nghiệp dĩ đều phải chịu
cảnh đói khổ, lúc đó, gia đ́nh ông phải
rời nơi chôn nhau cắt rốn (Long An) dạt về
phía Nam, ghé nhiều nơi ở Nam kỳ lục tỉnh và
cuối cùng dừng lại ở Bạc liêu. Tại
đây, Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) thọ giáo thầy
đờn Nhạc Khị, một thầy đờn
giỏi nổi tíêng khắp Nam kỳ lục tỉnh,
đứng đầu nhóm tài tử Bạc Liêu,
người đời tôn ông là hậu tổ tài tử
cải lương. Sau một thời gian học
đờn tranh và ḱm, ông Sáu Lầu trở thành học tṛ
xuất sắc nhất trong nhóm các môn đệ của
thầy Nhạc Khị. Sáu Lầu thầm yêu cô Hai Thân (con
gái thầy Nhạc Khị), nhưng v́ nhà nghèo không tiền
cưới nên cô Hai Thân phải đi lấy chồng. Câu
chuyện t́nh yêu của Sáu Lầu và Hai Thân theo thời gian
chỉ c̣n là kỷ niệm. Gia đ́nh cưới một
người con gái cùng quê cho Sáu Lầu nhưng trớ trêu
thay, đă ba năm mà nàng không sinh nở, trong khi cha mẹ
Sáu Lầu luôn mong có đứa cháu nội. Hồi đó
quan niệm “Tam niên vô tử bất thành thê” rất khắc
nghiệt. Cha mẹ Sáu Lầu buộc ông thôi vợ
để cưới người khác và cho vợ ông
được trở về nhà cha mẹ đẻ.
Sáu Lầu vẫn chung thủy với vợ. Đêm
đêm một ḿnh chăn đơn gối chiếc ông
nằm nghe tiếng trống chùa Vĩnh Phước
vọng lại đến năo ḷng. Ông liên tưởng
đến t́nh cảm của vợ chồng ông chẳng
khác ǵ thiếu phụ trông chồng như Ḥn Vọng Phu,
cùng lúc cảnh đất nước đang bị
thực dân phong kiến thống trị. Đêm khuya thanh
vắng ôm đờn mà giải bày tâm sự, ông nhớ
đến điệu Nam ai với bài Tô Huệ Chức
cẩm hồi văn và dựa theo tứ đó sáng tác
bản Dạ cổ. Từ câu chuyện t́nh yêu và nỗi
khổ của ḿnh, nhạc sĩ Cao Văn Lầu đă
nâng lên thành tâm trạng chung, tư tưởng nghệ
thuật chung của dân tộc lúc bấy giờ để
môi người cùng chia sẻ.
Đó là buổi b́nh minh của bản vọng cổ.
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu sáng tác giai điệu này
khoảng cuối năm 1918, đến năm 1919 th́
được phổ biến trong giới tài tử
Bạc Liêu. Cũng năm ấy ông lén đến thăm
vợ và mấy tháng sau được vợ báo tin bà
đă có thai. Cha mẹ ông vui mừng và rước vợ
ông về đoàn tụ. Kết quả bào thai ấy là cậu
bé Cao Kiến Thiết ra đời (hiện nay là cán bộ
về hưu).
Bản vọng cổ thời
gian
Từ sau năm 1920 th́ bản Dạ cổ hay Dạ
cổ hoài lang được phổ biến càng ngày càng
rộng khắp miền Tây Nam Bộ, với từng
thời gian và tiết tấu được tăng thêm:
nhịp đôi, nhịp tư, nhịp tám, nhịp 16, và
đến nay là bản vọng cổ nhịp 32. Các
cuộc đờn ca tài tử nào cũng không thể
thiếu vắng bản vọng cổ, với hơi
điệu Nam ai oán, vừa trữ t́nh lăng mạn, có chút
buồn man mác…Ngay khi SKCL ra đời không lâu th́ các tác
giả tiền bối đă đưa bản vọng
cổ vào cải lương và thịnh hành từ sau
năm 1930. Càng về sau bản vọng cổ được
đưa vào cải lương với số lượng
nhiểu hơn, được tách rời từng câu cho
phù hợp với t́nh huống, hoàn cảnh kịch như
có lớp chỉ câu 1+2, có lớp 15+16, có màn 3+4 hoặc 1+6…
Các tác giả c̣n viết trọn bài theo các loại nhịp,
gọi là bản lẻ và thường xuất hiện trên
các hăng băng đĩa, đài phát thanh và các cuộc
đờn ca tài tử. Từ cuối thập niên 50
đến nay, nhiều tác giả c̣n ghép bản vọng cổ
với ca khúc tân nhạc, gọi là tân cổ giao duyên
rất ăn ư và nhiều tác phẩm đă làm say mê ḷng
người không ít.
Sự thăng hoa của
bản vọng cổ
Bản vọng cổ đă có sức sống mănh
liệt trong ḷng công chúng, nó chiếm lĩnh t́nh cảm
tất cả các tầng lớp từ trí thức, đến
những người b́nh dân nhất. Nhiều vị
tướng lĩnh, tiến sĩ, giáo sư, bác sĩ ca
vọng cổ rất hay và hầu hết dân chúng ở vùng
ĐBSCL ca rành "sáu câu vọng cổ". GSTS Trần
Văn Khê, có lần thuyết tŕnh về cái đẹp
của âm nhạc Việt Nam tại TPHCM đă nói “bản
vọng cổ rất đa dạng về phong cách và phong
phú về tư tưởng nội dung. Chỉ có câu
chữ nhạc trong khuôn khổ nhất định mà
mỗi người đờn nghe khác nhau về âm sắc,
người ca nhiều hơi, kỹ thuật giọng
điệu cũng khác nhau, người viết lời khác
nhau tạo hương sắc bản vọng cổ muôn màu
muôn sắc tuyệt vời. ”Nhiều nhà nghiên cứu
nước ngoài đến Việt Nam nghe bản vọng
cổ rồi bảo Vọng cổ chỉ từng ấy
câu, mà quá nhiều lời văn, nội dung cỡ nào
cũng dung nạp được và nghe hoài không thấy
chán. Và, một nghệ sĩ miền Bắc đă tâm
đắc: Nam Bộ có bản vọng cổ vượt
thời gian và không gian, thể loại hay mà người ca
cũng hay, nhất là miền Tây Nam Bộ sờ đâu
cũng đụng ca vọng cổ hay! Phải chăng
sự thăng hoa ấy của bản vọng cổ
đă đạt đến đỉnh điểm của
nó trong ḷng mọi tầng lớp công chúng và nó cũng đă
vượt đại dương đến nhiều
nước trên thế giới.
Cũng chính bản vọng cổ đă khẳng
định sức sống và vị trí của ḿnh bởi
tính chất đa dạng: hỉ, nộ, ái, ố...
Đặc điểm này đă nhanh chóng chắp cánh cho
nhiều lớp nghệ sĩ nổi danh. Cô Ba Đắc,
Năm Nghĩa, Tư Sạng, cô Ba cần Thơ, Năm Trà
Vinh... Đệ nhất danh ca Út Trà Ôn, tiếp nối
những sầu nữ Út Bạch Lan, Thanh Nga, Bạch
Tuyết, Phượng Liên, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Thanh
Kim Huệ, Tấn Tài, Minh Cảnh, Minh Phụng, Minh
Vương, Thanh Sang, Phương Quang, Thanh Tuấn, Vũ
Linh… Nhờ những câu vọng cổ cải lương
hay trên SKCL sàn diễn mà nhiều nghệ sĩ
được khán giả coi như thần tượng,
họ luôn mong chờ cho nghệ sĩ xuống ḥ vọng
cổ để vỗ tay tán thưởng… Vọng cổ
đă làm "cho xiêu ḷng chị cho dày duyên em" là thế.
Có thể nói không một vở cải lương nào mà
không có ít nhất vài câu vọng cổ, v́ nó như là máu
thịt.
Cứ đến mùa Trung Thu hàng năm ở Bạc Liêu
lại tổ chức kỷ niệm ngày mất của
nhạc sĩ Cao Văn Lầu, người đă
để lại cho nghệ thuật dân tộc một di
sản độc đáo, một bản sắc văn hoá
của cả nước nói chung và phía Nam nói riêng.