Bản “Dạ cổ hoài lang” (nhịp 2)

đă ra đời như thế nào?

 

Trung Tín

 

Bản Dạ cổ hoài lang (nhịp 2)  - của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu được sáng tác vào năm 1920, ra đời và lớn lên giữa bầu khí xôn xao, đầy áp đảo của các điệu Tứ đại oán, Văn Thiên Tường, nhất là thời kỳ bản Hành vân “độc chiếm” sân khấu cải lương (1920 -1935) và trong giới tài tử.

Nền ca nhạc tài tử Nam Bộ h́nh thành và sau đó phát triển mạnh mẽ ra khắp “Nam kỳ lục tỉnh” từ những năm đầu của thế kỷ 20. Nổi bật có các nhóm tài tử  của: cụ Nguyễn Quang Đại (“thủ lĩnh” miền Đông), cụ Trần Quang Quờn (“chủ soái” miền Tây), nhạc sĩ Nguyễn Tống Triều (Mỹ Tho), tài tử Tống Hữu Định (Vĩnh Long), ông Nhạc Nhi (Bạc Liêu), cụ Trần Quang Diệm (Mỹ Tho)… Bài bản được ưa thích đương thời là Tứ đại oán – một điệu ca phổ biến suốt thời kỳ ca nhạc tài tử “thính pḥng” trên sân khấu “nhà hàng” và Ca ra bộ (1910 – 1919)…

Dạ cổ hoài lang, lúc đầu tưởng phải ch́m sâu vào tâm sự của một người, không ngờ chẳng mấy chốc đă “vươn vai lớn mạnh”. Kể từ khi mở ra nhịp 8 (năm 1936) với giọng ca ngân nga chậm răi của nghệ sĩ Năm Nghĩa, qua bài “Văng vẳng tiếng chuông chùa” (ca trên đĩa Asia) - và được người đời gọi gọn là Bài Vọng cổ.

Mười một năm sau, bản vọng cổ lại đi vào một bước ngoặt mới…

Giọng ca của nam tài tử Út Trà Ôn qua bài “Tôn Tẩn giả điên” (nhịp 16), với lối ca buông nhịp mới mẻ, luyến láy ngọt mùi truyền cảm, xen lẫn thêm các câu ḥ điệu lư, danh ca Út Trà Ôn thực sự đă “định h́nh” cho bài vọng cổ. Về mặt làn điệu và cấu trúc âm thanh, một điệu ca đặc nét Nam bộ, đầy cảm xúc trong hơi điệu và nhạc cảm triền miên, bản vọng cổ chiếm gần vị trí chủ đạo trên sân khấu và các tụ điểm tài tử. Rồi theo ḍng cảm hứng, bản vọng cổ đă mở dần ra nhịp 32, 64, thậm chí 128…

Bản Dạ cổ hoài lang (nhịp 2) đă đặt nền móng cho việc h́nh thành bài Vọng cổ hiện nay là bản Dạ cổ hoài lang, do Sáu Lầu (tức Cao Văn Lầu) sáng tác nhạc, xin trích giới thiệu cùng độc giả

1. Từ là từ phu tướng

2. Báo kiếm sắc phán lên đường

3. Vào ra luống trong tin nhạn

4. Năm canh mơ màng

5.Em luống trông tin chàng

6. Ôi gan vàng thêm đau

7. Đường dù xa ong bướm

8. Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang

9.  C̣n đêm luống trông tin bạn

10.Ngày mỏi ṃn như đá vọng phu

11.Vọng phu luống trông tin chàng

12. Ḷng xin chớ phụ phàng

13. Chàng là chàng có hay

14. Đêm thiếp nằm luống những sầu tây

15. Biết bao thuở đó đây sum vầy?

16. Duyên sắc cầm đừng lợt phai

17. Là nguyện cho chàng

18. Đặng chữ an - b́nh an

19. Trở lại gia đàng

20. Cho én nhạc hiệp đôi.

(Bài ca này trích sách của ông Trịnh Thiên Tư (ca nhạc cổ điển điệu Bạc Liêu), đă xuất bản tại Sài G̣n khoảng năm 1963. Tác giả là cháu, gọi nhạc sư Hai Khị (thầy của ông Sáu Lầu) bằng cậu. Ông Trịnh Thiên Tư là một nhà giáo, kiêm soạn giả bài ca tài tử cải lương. Mặc dù nhà tác giả ở tận Long Xuyên, cách nơi ở của ông Sáu Lầu hơn 50 cây số (Vĩnh Lợi, Bạc Liêu), nhưng thường qua lại trao đổi âm nhạc và thăm hỏi).

Nhạc sĩ Cao Văn Lầu ra đời cách nay 112 năm (ông sinh năm 1892) tại xă Thuận Lễ nay là Thuận Mỹ, Tân An (Long An). Tổ phụ của ông nguyên ở thành Gia Định, Năm ông Sáu Lầu lên 6 tuổi, cha ông mới chuyển về Bạc Liêu. Ông Sáu Lầu là một trong những môn đệ xuất xắc của nhạc sư Hai Khị về nhạc lễ.

Năm 1978, nhạc sĩ Sáu Lầu có lên Sài G̣n. Ông trú tại nhà nhạc sĩ Hai Ngưu. Về nguyên nhân sáng tác bài Dạ cổ hoài lang, nhạc sĩ Hai Ngưu (năm nay cũng đă 89 tuổi) đă kể lại rằng: “Trong một đêm ông Sáu Lầu trực gác tại Nhà đèn Bạc Liêu vào năm 1920, do buồn việc gia đ́nh, vợ chồng phân ly, ông buộc phải bỏ vợ; do hai vợ chồng chung sống với nhau hơn 10 năm mà không sinh con. Đau khổ trong hoàn cảnh nợ duyên ngang trái, ông xúc cảm viết thành bản nhạc ḷng Dạ cổ hoài lang (Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng). Sau khi bản Dạ cổ hoài lang ra đời, có lẽ trời cao không phụ ḷng người tốt, nên ít lâu sau hai vợ chồng đă tái hợp lại. Vợ ông thọ thai, để rồi sau đó hai ông bà đă có với nhau 6 người con”.

Nhạc sĩ Trần Thanh Tâm (Chín Tâm), nguyên là giảng viên trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài G̣n, sống tại Quận 4 (năm nay cũng đă 78 tuổi), trước thường xuyên trao đổi thư từ với nhà giáo Trịnh Thiên Tư. Ông Tư đă kể lại với ông Chín Tâm như sau: “Năm ông Sáu Lầu 28 tuổi, ông được lệnh mẹ phải thôi vợ v́ lư do “tam niên vô tự bất thành thê”. Ông Sáu Lầu đau khổ nhưng không dám căi lời mẹ dạy. Chiều chiều ông ôm cây đàn ḱm ra sau vườn làm bạn tâm t́nh. Để trút bỏ nỗi ḷng, ông huưt gió thành bản nhạc ḷng. Tuy vừa ư với chữ Ḥ khởi đầu của bài Lưu Thủy, song ông không dứt khoát được chữ đờn trong bài và chưa khẳng định số câu. Bài này lúc đầu có 22 câu và ông đặt tên là HOÀI LANG. Danh ca Bảy Kiên nhận thấy có vài câu trùng ư, đề nghị rút lại c̣n 20 câu. Đồng thời ông Bảy Kiên c̣n thêm vào hai chữ DẠ CỔ, thành ra “DẠ CỔ HOÀI LANG”. Nhạc sĩ Sáu Lầu thấy có lư nên hoàn chỉnh lại bản Dạ cổ hoài lang c̣n 20 câu (bài ca 22 câu cũng đă được NSƯT Tấn Đạt ca trên Đài phát thanh TP.HCM vào năm 1992 trong chương tŕnh CLB Âm nhạc truyền thống). Về lời ca, nhạc sĩ Sáu Lầu phóng tác theo bài thơ “Chinh phụ thán” của nhạc sư Nguyệt Chiếu – trụ tŕ chùa Phật Ḥa B́nh ở Bạc Liêu. Bài thơ mang âm hưởng tích “Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn” đời nhà Tần bên Tàu”.

Hai lời kể trên, dù có vài sai biệt về nguyên nhân sáng tác, nhưng vẫn có một điểm chung về cuộc đời của tác giả Cao Văn Lầu. Nay xin ghi lại để làm tư liệu về sau.

(Theo vnn.vn)