CHỮ TRINH CỦA NGUYỆT ĐỒNG XOÀI
Nguyễn Đăng Thường
Nguyệt Đồng Xoài của cố nhà văn Lê Xuyên là một
truyện dài đăng báo ăn khách, trước khi
trở thành một tác phẩm hư cấu bán chạy
ở miền Nam trước 1975. Sau "giải phóng",
10 cuốn tiểu thuyết trường giang của Lê
Xuyên đă "được" chính quyền cách
mạng cách "mạng" trong tinh thần tru di tam
tộc theo đúng truyền thống văn hóa tốt
đẹp con Rồng cháu Tiên, đă chuyển hướng
theo con Mác-Lênin cháu Bác Hồ. Nhà văn Lê Xuyên, cũng như
hầu hết các văn nghệ sĩ miền Nam không có
phương tiện cao bay xa chạy, hoặc đă t́nh
nguyện ở lại vào phút chót mong góp sức xây dựng
một quê hương mới tốt đẹp hơn
vạn lần, đă lănh nhận cái phần thưởng
quư báu là được đi học tập cải
tạo, một tṛ sa-đích dă man, nô lệ hóa, súc vật
hóa con người, mà chính quyền cộng sản đă
sáng chế theo chủ trương "phương
tiện biện minh cho cứu cánh", nối gót phát-xít
Đức. Khi rời trại về tổ ấm đă
hoang lạnh, nhà văn tên tuổi và tài hoa Lê Xuyên đă
phải sống phần cuối đời, hơn hai
mươi năm, bằng cách bán thuốc lá lẻ ở
đầu đường để độ nhựt.
Trong suốt mười lăm năm ông không có cơ
hội hay phương tiện để đặt chân
"trở vô Sài G̣n" thăm bạn bè cũ, dù nhà ông
chỉ ở cuối đường Ngô Quyền (Chợ
Lớn).
Như độc giả biết rơ, trong
tinh thần xây dựng và với mục đích khơi
thông, phục hồi văn học miền Nam trước
1975, Công ty Văn hóa Phương Nam mới đây đă cho
tái bản Nguyệt Đồng Xoài và bốn cuốn
truyện của Dương Nghiễm Mậu. Tức
khắc chúng bị phê phán thậm tệ, chí ít là bởi hai
người "có tiếng nói": một cô giáo chắc hẳn là
không cô giáo làng dù là làng thế giới, một nhà báo chắc chắn
là không nhà báo lá cải dù là cải hoa ngồng. Sự "súc
vật hóa" con người trong các tác phẩm hiện
sinh của Dương Nghiễm Mậu đă khiến cô
giáo "dạy Kiều" phẫn nộ. Nhưng
súc vật hóa con người trong đời sống hàng
ngày, ở ngay trước mắt, th́ có thể cô giáo này v́
đă quen chứng kiến nên không thấy xốn xang? C̣n những
cảnh đọa đầy con người trong Kiều,
trong văn chương của Tự lực Văn
đoàn, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nguyên Hồng… th́ sao? Ông nhà báo th́ chê cuốn truyện
của Lê Xuyên, trước tiên, là v́ nó thuộc loại
truyện "phơi tông / phơi mông" đăng báo chí
nhảm nhí trước khi được giải phóng
"thanh lọc hóa", chỉ nói về sex (nhưng
độc giả ṭ ṃ t́m đỏ mắt trong hơn 1000
trang vẫn chẳng kiếm được một
cảnh "bóng đè" giống như hiện thực
xă hội chủ nghĩa xả láng đương
đại), và trách móc Cục Xuất bản đă không
"đọc hết" và chưa "biết rơ về
những tác phẩm này". Nhà báo nọ c̣n bịa thêm
chuyện "những gia đ́nh gia giáo [miền Nam]
chỉ cho phép con cái ḿnh đọc truyện của Vũ
Hạnh, Sơn Nam, Ngọc Linh, An Khê" v́ "các bậc
cha mẹ không muốn con cái ḿnh bị tiêm nhiễm".
Xin thưa: Nếu tác phẩm này có ảnh
hưởng th́ đó sẽ là một ảnh hưởng
tốt trăm phần trăm v́ cô Nguyệt đă giữ
được tiết trinh cho tới phút cuối cùng, dù nó
đáng giá ngàn vàng (thời Nguyễn Du) hay chỉ
mười đô thôi (thời Cộng hoà Xă hội Chủ
nghĩa Việt Nam). Cô giáo đội Kiều đạp
Dương Nghiễm Mậu và nhà báo đấu tố Lê
Xuyên chắc hẳn vẫn c̣n nhớ lời dạy
"đàn ông chớ đọc Phan Trần, đàn bà
chớ kể Thúy Vân Thúy Kiều" của người
xưa chứ? Sự thật là độc giả của
Lê Xuyên nói riêng và của truyện đăng báo nói chung lúc
đó toàn là các bậc cha mẹ, và thần tượng
của giới học sinh lúc ấy là nhà văn Duyên Anh. Tôi
c̣n nhớ khi đi coi thi tú tài ở Mỹ Tho, một
đồng nghiệp (và đồng khóa) dạy tiếng
Pháp, chị Phạm Thị Hoa, đă mở cuốn Chú
Tư Cầu ra đọc và khen sách hay, "anh
đọc thử coi". Trong số bốn nhà văn
được nhà báo nọ trân trọng kể tên, hai
"tên" là "Việt cộng nằm vùng" (Vũ
Hạnh, Sơn Nam), hai "tên" kia th́ nói thiệt kẻ
viết bài này trước 1975 chưa được nghe ai
nói đến, dù chỉ vỏn vẹn một lần thôi.
Như một thể loại, tiểu
thuyết feuilleton tự nó không kém cỏi, nó đă
được sử dụng bởi các nhà văn danh
tiếng thế giới như Dumas, Balzac, Dickens (nữ
hoàng Victoria đă theo dơi truyện Dickens hàng ngày trên báo) v́ nó
tạo một cái nền lớn thích hợp cho những
bức họa xă hội hoành tráng. Tiểu thuyết xă
hội của cụ Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết
tâm lư của Bà Tùng Long cũng đă xuất hiện lần
đầu tiên dưới dạng feuilleton. Không phải cứ
muốn là bất cứ ai cũng có thể viết
được tiểu thuyết feuilleton đâu nhé. Cái khó
trước nhứt, cũng như lẽ sống của
nó trên báo chí, là nó phải ăn khách ngay từ buổi
đầu. Cây bút feuilleton nổi tiếng nhứt ở Sài
G̣n trước 1954 là nhà văn Phú Đức, tác giả Châu
về Hiệp Phố, đăng tải trên nhựt báo
Thần Chung hay Sài G̣n Mới đă giúp bà Bút Trà
(chị chồng Bà Tùng Long) tạo phố lầu, xây
biệt thự. Theo huyền thoại (và chắc chắn
không đúng v́ đối với bất cứ ai, viết
chẳng bao giờ là chuyện dễ như chơi), nhà
văn Phú Đức, với sức tưởng tượng
phong phú, đă xây dựng dần dà cốt chuyện và
viết theo cảm hứng tức th́ (bên cạnh ả Phù
Dung trong Chợ Lớn), tới toà soạn giao các trang
bản thảo vào buổi sáng để chúng xuất
hiện mỗi buổi chiều.
V́ đă bị tẩy năo trầm
trọng, v́ đă quen vâng lời Đảng, nhà báo nọ
đă ngờ ngệch đến độ tin rằng
cứ cấm cửa (con cái) là sẽ được tuân
chỉ ngay (như Thúy Kiều đă “vâng lệnh”
Vương ông lén lút gặp Kim Trọng!), mà không nghĩ
(hay chưa đủ tri thức để nghĩ rằng)
sự cấm đoán chỉ đưa đến kết quả
trái ngược là kích thích sự ṭ ṃ, tạo ước
muốn thoát ly? Trường hợp chống đối
nhanh nhẩu này đă cho thấy việc khai thông văn
học hai miền trong nước gặp khó khăn ngay
từ bước đầu, nếu không muốn nói là
đă thất bại ngay, do định kiến (tôi quá bi
quan chăng?). Bởi thế ta chớ vội vàng mơ
tưởng chuyện hợp lưu "anh đi
đường tôi tôi đường anh" giữa hai
ḍng văn học trong và ngoài nước, v́ ḍng trong luôn luôn
có phương tiện và sự hỗ trợ của chính
quyền để lấn lướt. Ngoài ra nhà báo nọ
đă chơi tṛ châm biếm cao cấp khi ghi dấu chấm
than sau câu "khách sạn nơi anh Mỹ ở bị
nổ tung bởi một quả ḿn (!)". Tất nhiên
chỉ có bom Mỹ trút xuống Hà Nội, Hải Pḥng,
được nhân đôi, nhân ba là có thật thôi.
Đại khái (v́ đây không là một bài
nghiên cứu tỉ mỉ) truyện phơi tông
(roman-feuilleton) đă xuất hiện ở Pháp giữa
thế kỷ 19 (1836), như một tiểu loại văn
chương có tên gọi riêng, như truyện thư
từ (roman épistolaire) ở thế kỷ 17, 18 trước
đó. Cứu cánh của loại tự sự feuilleton ngay
từ buổi đầu là nêu các vấn đề
đạo đức và thẩm mỹ, giúp độc
giả (quần chúng) hiểu rơ hơn, mà nó chỉ là
một phương tiện đơn giản, hữu
hiệu. Tất nhiên cũng ngay từ buổi đầu,
nó đă bị kỳ thị, khinh khi bởi giới trí
thức, v́ sự có mặt của nó là để phục
vụ đám đông; v́ nó không đài các, thiếu tế
nhị, nói tắt là không hợp gu giới này. Nó đă
bị rẻ rúng, như truyện trinh thám, truyện tranh,
điện ảnh, ti vi, thậm chí máy vi tính, khi chúng
mới xuất hiện. Nếu chỉ nh́n dưới góc
cạnh tự sự thuần túy (như là phương
tiện, nếu không độc nhứt th́ cũng hiệu
quả nhứt để "câu" thính giả), th́
lối kể chuyện lằng nhằng "ṿng vo tam
quốc" đă xuất hiện từ Đông sang Tây (hay
ngược lại) với truyện Tàu như đă ám
chỉ trên đây (Đông Châu liệt quốc, Tam
Quốc chí, Tây du kư...) truyện Nhật (The Tale
of Genji), truyện cổ Hy Lạp (Iliad, Odysseus),
truyện Ảrập (Ngàn lẻ một đêm), Kinh
Thánh (Sáng thế kư, Cựu Ước, Tân
Ước), vân vân.
Rải rác trong văn học thế giới
từ Âu sang Á (hay ngược lại từ Đông sang Tây), và
có thể đă bắt đầu với Gargantua và
Pantagruel (xuất bản vào khoảng 1532) của Francois
Rabelais, Don Quixote (1605) của Miguel de Cervantes, hay Genji
Monogatari (The Tale of Genji, Nhật Bản) có thể là
của Phu nhân Murasaki Shibuku (khoảng 973 hay 1014-1025);
thỉnh thoảng lại thấy xuất hiện trong
văn học Tây phương vài tác phẩm "ṿng vo"
như Gulliver's Travels (1726) của Jonathan Swift, Tristram
Shandy của Laurence Sterne (gồm chín tập xuất
hiện ở Anh từ năm 1759 và liên tục trong
mười năm, mà cuốn chót cũng chưa thật là
kết cuộc), Ulysses (1922) của James Joyce, Đi t́m
thời gian đă mất (1913-1927) của Marcel Proust, Der
Mann ohne Eigenschaften (Người không không phẩm
chất, 1930, 1933, 1943) của Robert Musil, nay đă
được đánh giá là tác phẩm vĩ đại có
một không hai của thế giới, mà tôi chỉ xin
kể ra như những thí dụ và tránh đi sâu vào chi
tiết. Đó là chưa kể các bộ tiểu thuyết dài
hơi của Tolstoy, Dostoyesky, Gadda, Dos Passos, Thomas Mann, Roger
Martin Du Gard, Jules Romains, thậm chí Sartre với Les chemins
de la liberté c̣n bỏ dở. Nhà văn Umberto Eco đă
đưa ra chí ít là hai loại độc giả:
độc giả tốt và độc giả tồi.
Một lần nữa tôi chỉ xin kể ra và sử
dụng như luận cứ chứ không đi sâu vào hai
loại độc giả theo sát định nghĩa Eco.
Theo thiển nghĩ của tôi, hai độc giả
Việt kể trên, một nhà giáo và một nhà báo, thuộc
loại độc giả tồi, v́ tầm nh́n của
họ dừng lại ở cái bề mặt rất
mỏng của một tác phẩm mà không thể tiến xa
hơn. Họ đọc chỉ để xem cốt
truyện, biết tư cách, tâm lư các nhân vật coi có thích
hợp với sở thích, quan điểm đạo
đức, thẩm mỹ của họ hay không, rồi vội
vă chỉ vẽ, cười chê.
Theo thiển nghĩ của tôi, nhà văn
Lê Xuyên đă viết lại Truyện Kiều và Lục
Vân Tiên với hai tác phẩm Nguyệt Đồng Xoài
và Chú Tư Cầu. Hai cuốn truyện phơi tông
khác, Kinh nước đen và Loan mắt nhung
(một Từ Hải hiện đại) của nhà văn
Nguyễn Thụy Long, cũng là một cách hấp dẫn
để hiện đại hóa tác phẩm của
Nguyễn Du. Tôi đọc bốn cuốn truyện này
đă khá lâu nên không nhớ chi tiết. Chỉ nhớ khi
đọc Nguyệt Đồng Xoài tôi đă ư
thức ngay giá trị biểu trưng đậm nét
của nhân vật Nguyệt, vết sẹo trên lưng cô,
và chữ trinh vẫn nguyên vẹn khi cô vĩnh biệt /
tạm biệt cơi đời. Tôi đă nghĩ nhân vật
Nguyệt Đồng Xoài chính là "quê hương Việt Nam
thần túy", vẫn giữ được nguyên vẹn
nhan sắc và tiết trinh đến phút cuối cùng.
"Đất Việt - Nguyệt Đồng Xoài" hay chí ít
"Nguyệt Đồng Xoài - Nam Việt" đă giữ
ḿnh không để mất trinh với tên Sở Khanh
(Cộng sản Bắc hay Cộng ḥa Nam), nhưng định
mệnh trớ trêu ác nghiệt (quả ḿn Việt cộng
hay dàn đồng ca trí thức cánh tả toàn cầu và
phản chiến trong ngoài?) cũng đă khiến cô không
thể trao thân gởi phận cho Từ Hải (Dân chủ,
Tư bản Mỹ).
Xin chớ quên, hay cần biết thêm,
rằng độc giả miền Nam đọc truyện
phơi tông mỗi ngày chỉ vài cột ngắn trên báo cùng
với tin tức thời sự mà chúng phản ảnh
tức khắc, dưới dạng thức văn
chương. Tất nhiên họ không cần biết cái ḿnh
đang đọc có là "tác phẩm văn học"
hay không. Mà "tác phẩm văn học" cho ai, theo tiêu chuẩn
nào? Chẳng lẽ nhân danh "văn học"
để buộc độc giả ta đọc
truyện người của García Márquez, Cao Hành Kiện,
Nadime Gordimer, thậm chí Elfriede Jelinek... mà xao lăng truyện
nhà của Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Dương
Nghiễm Mậu ư? Dĩ nhiên tỉ tê xót xa cho số
kiếp của một chị xẩm thậy “đĩ
thập thành” đời Minh năm Gia Tĩnh hai kinh
vững vàng sẽ uyên thâm quí phái hơn là chú ư đến
số phận của một cô gái quê tiết trinh tỉnh
lẻ Việt Nam chiến tranh bom đạn tang tóc
đời nay! Thú vị hơn hết, vâng, hay ho hơn
cả là cái tṛ “rối cạn” rước voi về dựng kịch Dürrenmatt,
Tennessee Williams giày mả tổ cải lương miền
Nam chưa xanh cỏ, dù chỉ là cỏ ni lông!
Ngoài ra, yếu điểm của
truyện phơi tông Việt Nam (nếu có), với thời
gian đă / sẽ trở thành ưu điểm. Bởi
chúng đă ghi chép ngôn ngữ đời thường /
phương ngữ đồng bằng Cửu Long cho mai
hậu, nối gót các cụ Nguyễn Đ́nh Chiểu, Hồ
Biểu Chánh. V́ biết đâu, ngôn ngữ đó, chí ít là
trong văn, thơ có thể sẽ bị ngôn ngữ
Bắc bộ lấn át (kẹo lạc, đậu phụ,
muối vừng, ô tô sẽ chiếm chỗ của kẹo
đậu phộng, tàu hủ, muối mè, xe hơi, v.v...)
để rồi sẽ mai một theo năm tháng chăng?
Rờ gỗ, tréo ngón, hy vọng trong tuyệt vọng,
rằng đất nước "Việt Nam nguyên
chất Nguyệt Đồng Xoài" sẽ hồi sinh
rực rỡ trăm phần theo ḍng thời gian và lịch
sử nhân loại, luôn luôn có những vấp váp, lạc
bước nhứt thời vào ngơ cụt, nhưng sẽ
c̣n măi măi tiến bước trên những nẻo
đường gió lộng thênh thang.
Cuối cùng, xin nhắc lời cố
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe
những ǵ người cộng sản nói, hăy xem những
ǵ người cộng sản làm!”. Lời lẽ của
ông tướng Việt cộng về chiều đang rêu
rao “ḥa giải dân tộc” chỉ là đạo đức
gỉả, đặt cái cày trước con trâu. Nếu
thực t́nh muốn có ḥa giải th́ chính quyền cộng
sản phải thả ngay linh mục Nguyễn Văn Lư;
phải trả lại nhà và đất đă tịch thu
của Việt kiều về cho chủ cũ; phải có một
ngày lễ kỷ niệm những người chết trong
trại cải tạo, thuyền nhân bỏ ḿnh trên biển
cả và chính thức xin lỗi đón mời Việt
kiều về tham dự; phải mở rộng các cánh
cửa Tự do, Bác ái, Công bằng đón tiếp dân
tộc Việt trong và ngoài nước th́ mọi chuyện
sẽ êm xuôi tốt đẹp ngay. Nói tóm lại, miền
Nam đă không nhỏ nhen đốt sách diệt sĩ phu,
san bằng các nghĩa trang, gây chia rẽ hận thù, chí ít là
khi ḥa b́nh trở lại. Vậy nay nếu muốn có ḥa
giải, Bắc bộ là kẻ đang cầm cờ,
phải khởi bước đầu. Giản dị
thế thôi. Hỡi những ai miệng ngậm bánh sữa
tha từ hải ngoại về, nên t́m đọc lại
bài ngụ ngôn "Con quạ với con chồn". “Núm
ruột ngàn dặm” trong miệng Việt cộng là “láng ô
lông lá, dịu dàng h́nh dung” trong miệng cáo già đó nhe.
Đă trót dại một lần rồi, đừng đánh
liều nhắm mắt đưa chân một lần
nữa nhé!
Kính mời độc giả xem thêm
phụ lục về truyện phơi tông theo cái nh́n
của nhà văn Mai Thảo, về cuộc đời
của hai nhà văn Lê Xuyên và Nguyễn Thụy Long sau "giải phóng", và hai
chương Tristram Shandy, một cuốn truyện
“không đầu không đuôi” của Laurence Sterne, để
suy gẫm thêm về bản chất của một tác
phẩm văn học. Nó không cần phải noi theo một
khuôn mẫu nhứt định và bất di bất dịch
theo quan niệm của văn chương hiện thực
xă hội chủ nghĩa, đă phá sản do chính sự
lố bịch khôi hài của những tác phẩm này. Tác
phẩm cũng như con người, cần phải
được tự do, dù đó chỉ là tự do có
giới hạn, v́ cả hai luôn luôn bị trói buộc trong
không gian và thời gian. Mỗi tác phẩm cống hiến
một định nghĩa. Do vậy, tác phẩm của
các nhà văn lớn luôn luôn khác biệt nhau. Tự do có
giới hạn hiểu theo nghĩa của Sartre: dù trong hoàn
cảnh nào con người cũng có thể lựa
chọn, để trở thành anh hùng hay tiểu nhân,
mẹ hiền hay con điếm. Triết lư của chủ
nghĩa hiện sinh là “hiện hữu có trước
bản thể” (l’existence précède l’essence). Anh hùng và tiểu
nhân đă cống hiến một định nghĩa khác
biệt về con người. Ở nhà văn Jean Genet,
Sartre đă ngẫu nhiên bắt gặp sự minh họa
hùng hồn cho triết lư hiện sinh: cậu bé Genet,
một đứa trẻ vô thừa nhận đă ư
thức chọn cho ḿnh vai tṛ thiếu nhi phạm pháp,
đồng tính luyến ái, ăn cắp vặt, phản
bội bạn bè chí ít là trong thời trai trẻ, khi kể
lại cuộc đời tù tội và cuộc sống bên
lề đă trở thành một nhà văn lớn, dị
thường và phi thường không giống ai. Bạn
đọc có thể đọc thêm về nhà văn này trong
bài “Genet: chân dung nh́n nghiêng”
của tôi trên Website Tiền Vệ.
Từ Hải là một con người
tung hoành, tự do. Thúy Kiều là một con người
thụ động, nô lệ. Cuộc đời Thúy
Kiều là cái chết chung thân, ngoại trừ những giây
phút ngắn ngủi lén lúc gặp Kim Trọng. Khi Từ
Hải quy nạp sự tự do (như “kết nạp
Đảng”) cũng chính là lúc Từ Hải lănh nhận cái
chết vĩnh viễn. Cô Tuyết đă tự do lựa
chọn “đời mưa gió”, cuộc “đời phong
trần” của nàng Kiều chỉ là do định
mệnh, và đó cũng là sự khác biệt giữa hai
nhân vật này!
(Nguồn:
talawas)