"CHÚ TƯ C ẦU" LÊ
XUYÊN
Nguyễn
Thuỵ Long
Sài G̣n 1999: Nguyễn
Thuỵ Long- Nguyễn Mạnh Đan-Uyên Thao
Viết hồi kư,
viết hoài về chuyện chết chóc, sự khốn
khổ của kiếp người, chính người
viết cũng thấy nản. Nhưng làm sao
được, v́ chính những người nằm
xuống đó là chỗ thân t́nh của tác giả, anh em,
bạn bè, hoặc là người mà tác giả ngưỡng
mộ, một nhà văn, một nhà báo, một thi sĩ nào
đó. Tôi nghĩ cũng là chuyện thường thôi, không
oán trời oán đất ǵ hết, hay đổ lỗi cho
ai. Con người ta chẳng qua có một số mạng, trời
cho sướng th́ được sướng, trời
bắt khổ th́ phải khổ mà thôi. Như một
lần nhà văn Lê Xuyên nói với tôi.
Đời sống tiêu
cực chăng? Tôi không biết nữa. Nói chung đời
sống chúng ta như bị cấy sinh tử phù, dở
sống dở chết. Thôi cũng được. Người
ta già mà chết, tai nạn mà chết, hoặc khổ quá mà
chết th́ cũng là chết vậy. Tôi không muốn nói
đến chuyện chết chóc nữa. Bây giờ già
rồi, có th́ giờ th́ dạo chơi, đi thăm
bạn bè mà không tốt sao, chúc cho nhau câu sống lâu trăm
tuổi. C̣n khối người bạn vẫn sống
đó, hoặc thành công, hoặc thất bại, hoặc
ngất ngư, bị dính "sinh phù tử".
Những người
bạn thành công trên đường đời, hăy khoan, tôi
chưa đi thăm vội, tôi t́m thăm những
người bạn ngất ngư trước đă.
H́nh như tôi cũng có
nhiều th́ giờ, tôi thuộc về loại đàn ông bây
giờ vô tích sự, ăn bám vợ con, tự nhiên thích rong
chơi, thăm anh bạn này, anh bạn kia đau ốm, hoặc
có chuyện khốn khổ chi đó.
Sau cơn băo, áp thấp
nhiệt đới số 4 và số 5, trời lại
đẹp. Buổi sáng ở thành phố Sài G̣n, không khí
trở nên trong lành, se se lạnh nhự trời thu Hà
Nội. Tôi, nhà báo hết thời, làm báo từ khi c̣n in báo
từ máy typo bỗng thấy ngứa nghề, nhớ nhung
vẩn vơ và thích chạy rong. Tôi có thể ngồi nhà,
trên căn gác bút mà gặm nhấm kỷ niệm, dĩ văng
coi như lùi vào quên lăng cho đỡ buồn. Mà sao cẳng
tôi như cuồng lên, nhớ nhung ǵ đâu không. Muốn
ngồi quán cà phê lúc trời tảng sáng, muốn ngửi
mùi giấy thơm mực in của những tờ báo
mới được nhả ra từ máy in, cái không khí âm
âm của ṭa soạn, tiếng máy đánh chữ lách tách.
Hoặc được phóng chạy như một phóng viên
đi nhặt tin giờ chót, làm phóng sự: "Vẫn c̣n
một cột tin giờ chót để cho anh đấy
trước khi báo lên máy". Lời anh tổng thư kư
ṭa soạn như c̣n vẳng bên tai tôi.
Đă gần ba chục
năm nay mà sao tôi thấy gần gũi như mới nghe
sáng nay. Ôi nhớ nhung vô vàn. Tôi yêu nghề, nâng niu nghề
nghiệp của ḿnh đến trọn đời. Vậy
sao nay tôi lại gác bút đến hai mưới mấy
năm trời, như một số anh em khác. Do lư do tế
nhị khó nói ra nên ai hiểu sao cũng được.
Nhưng những dự định viết cái ǵ đó trong
đầu người cầm bút vẫn c̣n đó, măi măi
như một nỗi bất hạnh dai dẳng... Tôi đă
thấy điều đó từ nhiều năm qua.
Sau cơn áp thấp
nhiệt đới trời đẹp, tôi lại ngứa
nghề, muốn lên đường để nh́n ngó lung
tung, muốn đi trở lại những con đường
mà trước đây tôi từng in dấu chân thuở
viết văn làm báo, thăm lại một số bạn
bè xưa.
Thế là tôi rời
căn gác bút, ra đường trên chiếc xe đạp
cũ rích, cà là tàng đi trên các nẻo đường,
từng quen thuộc mà nay hơi xa lạ đấy. Thành
phố thanh b́nh như khi tôi c̣n hành nghề phóng viên, bên ngoài
thành phố khi đó vẫn ́ ầm tiếng súng, chiến
tranh khắp mọi nơi, thành phố khi ấy chỉ là
phồn vinh giả tạo.
Hôm nay thành phố
vẫn đẹp, vẫn văn minh mà dân quê vẫn
hứng chịu mọi bất công, thối nát, đói nghèo.
Nạn nhân chính của thiên tai lũ lụt trên đồng
bằng sông Cửu Long, miền Trung đất cày lên
sỏi đá. Thành phố chỉ có một bộ mặt
thanh b́nh, văn minh, nhưng mặt trái của nó th́ khác. Xe
hơi, xe gắn máy đời mới chạy nườm
nượp trên đường. Tôi chóng mặt, nhảy
xuống khỏi xe đạp dẫn bộ, nhưng mà sao
cứ vẫn chệnh choạng. Tiếng xe hới
thắng kít sau lưng tôi, tôi nh́n, một thanh niên trẻ lái
ô tô con tḥ cổ ra cửa, ngoạc mồm chửi:
“Địt mẹ thằng
già, chán sống rồi hả?”
Tôi nghệt mặt ra,
anh ta chỉ đáng tuổi con tôi mà phát ngôn được
một câu độc chiêu như vậy. Tôi ngỡ ngàng
đến không kịp phản ứng, chiếc xe hơi
bóng loáng phóng vút đi bỏ lại một nạm khói
xộc thẳng vào mũi tôi, chạy xuyên qua suốt lên óc.
Có lẽ cậu bé thuộc loại con ông cháu cha, hoặc
giả là ông bé mà làm lớn, loại này ở đây th́
nhiều lắm. Tôi, dân đen, thấp cỗ bé miệng
chịu đựng xử sự của những
người thuộc loại đó nhiều năm và quen
rồi.
Tôi nở nụ
cười ngu ngơ đứng xem một đoàn du khách
nước ngoài “tham quan" Sài G̣n 300 năm, thành phố
Hồ Chí Minh. Ở những con đường chính, tôi đă
"tham quan" coi như hết rồi. Tôi đă đi qua
nhiều, xưa kia là ṭa báo tôi đă làm việc. Bây giờ
th́ tôi đi thăm ai đây?
Tôi dừng lại
ở đầu đường Gia Long (nay là Lư Tự
Trọng) và đường Nguyễn Trung Trực. Tại
nơi này nh́n qua Thư viện Quốc gia, Đại học
Văn khoa hồi xưa, có một kiosque bán cà phê, nh́n sang
bên kia đường là ṭa báo Đại Dân Tộc, phía
góc đường Thủ Khoa Huân, Gia Long là báo Sống.
Nói tóm lại có rất nhiều ṭa báo trên quăng
đường ấy. Kư giả, phóng viên, nhà văn sáng
sáng ngồi đầy các quán cà phê lề đường,
tất cả đều quen nhau, thân thiết đến
độ xộc thẳng vào đời tư của nhau,
nên t́nh nghĩa bạn bè cũng rộn ră. Sau năm 1975,
ngày "đứt phim", báo chí thuộc chế
độ cũ dẹp tiệm, kư giả nhà văn có
người đi mất, người c̣n sót lại lêu bêu.
Tôi ở trong số đó. Buồn quá đi thôi, bỗng
dưng tôi phải buông bút (mới chỉ buông chứ
chưa gác), vẫn c̣n nghĩ ḿnh dùng được ng̣i bút
để phục vụ độc giả. Sau vài lần
"vỡ mặt" mới sáng mắt ra.
Nơi tôi đứng là
một lề đường rộng, cái kiosque sơn màu
xám xỉn cũ kỹ nay đă biến mất. Nơi
đó tôi từng ngồi, thân thiết chủ quán
đến độ có thể ghi sổ nợ từng ly
cà phê, điếu thuốc thơm trợ hứng cho lúc
viết bài hay trang feuilleton đăng trên nhật báo.
Chẳng phải riêng ḿnh tôi mà nhiều anh em đồng
nghiệp cũng thế. Sau ngày đứt phim tôi c̣n
thấy lai rai vài người. Họ vớt vát cái ǵ, hay
chờ đợi như ngày anh em tụ lại với nhau
khi báo được lệnh đóng cửa.
H́nh ảnh nhà văn Lê
Xuyên, anh em quen đùa gọi là chú Tư Cầu, tên tác
phẩm nổi tiếng của anh viết về
đồng quê Nam Bộ, dĩ nhiên là có những mối
t́nh quê mùa mà không kém đam mê, tiêu biểu là nhân vật chú
Tư Cầu Trước ngày miền Nam bại trận, Lê
Xuyên là tổng thư kư báo Sài G̣n Mai rồi Đại
Dân Tộc, anh có cái nhạy cảm của người
làm báo cùng với sự sâu sắc của người
viết văn. Anh đă có cả lô tiểu thuyết
ấn hành, tôi không nhớ hết. Nhà văn Lê Xuyên hay nhà báo
Lê Xuyên cũng được. Nhưng anh em gọi anh là chú
Tư Cầu cho thêm phần thân mật. Nhưng h́nh ảnh
của nhà văn Lê Xuyên gây ấn tượng nhất cho
tôi là sau ngày chế độ Sài G̣n bại trận, tôi
vẫn c̣n thấy anh ngồi ở quán cà phê đó vào
những buổi sáng kế tiếp. Mắt nh́n lên ṭa
soạn xưa buồn rười rượi, y nguyên
như ngồi uống cà phê chờ anh chef typo xuốn báo cáo
đă đủ khuôn, xin lệnh chạy máy, hay cần
lấp một lỗ hổng. Bây giờ không c̣n ǵ nữa,
không vắng lặng mà có cái xôn xao của cờ quạt,
biểu ngữ khẩu hiệu và các trẻ thơ nối
ṿng tay lớn nhảy múa như cuồng ở góc
đường, góc công viên.
Lê Xuyên vẫn cái áo
sơ mi bỏ ngoài quần tây, cái mũ phở giản
dị, đôi dép. Tôi chưa bao giờ thấy ở anh
một sự "se sua" thời trang nào. Con
người anh rất giản dị, cái giản dị
của người miệt quê Nam bộ, nên gọi anh là
chú Tư Cầu cũng rất đúng, không từ nào chính
xác bằng. Tôi đă ngồi đó nới chuyện với
Lê Xuyên, tôi không nhớ ḿnh nói ǵ. Sau đó các văn nghệ
sĩ, nhà văn nhà báo chúng tôi hầu hết bị vồ
đi học tập cải tạo, Lê Xuyên đương
nhiên có mặt trong đám "học viên" đó. Anh
về sớm, tôi lại gặp anh trên những nẻo
đường đi bán bánh tiêu bánh ḅ, rồi anh mở
quán bán thuốc lá lẻ ở đường Ngô Quyền,
Chợ Lớn gần nhà anh. Tôi ngồi sửa xe
đạp ở góc đường Nguyễn Kim gần
đó, nên thỉnh thoảng tạt qua gặp nhau.
Đă lâu rồi,
đến hai ba năm tôi không có ghé qua anh. Sáng nay tại sao
tôi không ghé, lần sau cùng gặp anh coi bộ anh yếu
lắm. Khi đó anh nói với tôi anh tṛn 70 tuổi. Đường
về Chợ Lớn đối với tôi bây giờ xa
vời vợi, nhưng phải đi chứ. Thăm
một người bạn sau nhiều năm giam ḿnh ở
ấp Đông Ba cũng là một điều hay.
Kia ḱa, chú Tư Cầu
c̣n đó, sau cái quầy bán thuốc lá cũ rích, con
người anh cũng cũ rích, gầy guộc và
đầy chất Nam bộ chân chất. Cái mũ bánh tiêu
rúm ró chụp trên đầu, cái sơ mi mỏng lét, ṃn
cả vai, cái quần tây màu nâu ống cao ống thấp,
đôi dép không rơ bằng vật liệu ǵ nữa. Mặt
anh gầy rộc, xanh mét. Tôi gọi anh:
“Chú Tư Cầu!”
Anh nh́n tôi một giây
xong mới hỏi:
“Có phải Trâu
Nước không?”
“Chính tớ, mà sao ông
gầy thế, có khỏe không?”
“Ông cũng chẳng
hơn ǵ tôi, tôi suy yếu toàn diện rồi, 72 tuổi,
hai mươi năm ngồi bán thuốc lá lẻ ở
lề đường, trên góc đường này c̣n ǵ. Cám
ơn, ông ṃ đến tôi mới nhớ ḿnh là Lê Xuyên, chú
Tư Cầu...”
Niềm hănh diện c̣n
lại của một người cầm bút. Niềm xót xa
của một nhà văn đă từng có một thời
vang bóng. Nay anh ngồi đây trong sự lăng quên, hai
mươi năm ngồi ở một góc đường.
Trước mặt, bên kia đường có cái đ́nh tên
Vĩnh Viễn, bên cạnh đ́nh có một căn nhà có
bản đề "BCH phường đội 8".
Tôi nói với anh, tôi
mới đi thăm thành phố Sài G̣n về, tức là
thuộc khu vực Quận 1, Quận 3. Anh nói:
“Tớ 15 năm nay không
lên đến thành phố Sài G̣n, chẳng biết bây
giờ nó ra sao nữa?”
“To cao lắm, đúng là
chốn phồn hoa đô hội, cũng đă lâu lắm
tớ không tới đó, giống như gă nhà quê ra
tỉnh...”
“Chúng ta giống nhau.”
Nh́n cái quầy thuốc
lá cũ rích, long đinh, tróc sơn thấp lè tè của Lê
Xuyên, tôi lại lo lắng cho anh trong trận mưa
chiều ngày 9 tháng 11 vừa qua nhiều con đường
ngập lụt, hàng hóa chợ B́nh Tây bị nước úng
hư hỏng thiệt hại bạc tỉ. Lê Xuyên cũng
chỉ cười.
Anh cố ép tôi hút
một điếu thuốc Con Mèo. Trong câu chuyện của
anh, tôi rút ra được có một câu: "Tớ suy
sụp toàn diện rồi". Tôi cũng được
biết hoàn cảnh gia đ́nh anh, bà vợ bị mắc
bệnh hiểm nghèo từ mấy năm nay, một
đứa con gái của anh đă chết v́ ung thư
bỏ lại hai đứa con và cái quầy thuốc lá này
cho anh, anh là ông ngoại của chúng. Tôi hỏi về
sự học hành của hai đứa cháu mồ côi, anh có
vẻ ngạc nhiên. Qua câu nói của anh, tôi biết anh không
đủ sức nuôi hai cháu ăn học. Một quầy
bán thuốc lá lẻ như vầy ở đường
kiếm chác được bao nhiêu, nuôi bao nhiêu miệng
ăn, đă thế lại phải lo thuốc thang cho
người bệnh. Tôi cũng đang mệt nhọc v́
c̣n ba đứa con đi học nên rất đồng
cảm với anh.
Xoay sang chuyện văn
học nghệ thuật, Lê Xuyên than phiền với tôi
rằng anh mới đọc một bài báo nói về các tác
giả làm văn học Việt Nam từ năm chục
năm trở lại đây, những nhà văn nhà thơ
ở miền Nam đă từng cầm bút và có danh không
được nhắc đến một ai, nghĩa là
bị gạt ra ngoài lề. Tôi nói tôi có biết quyển
từ điển văn học ấy.
Báo Kiến thức
Ngày nay số 297 trang 186, mục "Ai sao?" có một
độc giả tên Lê Minh (Khánh Ḥa) hỏi: V́ sao các nhà
văn Vơ Hồng, Sơn Nam, Nguyễn Văn Xuân, Kiên Giang,
B́nh Nguyên Lộc không có tên trong Từ điển văn
học do nhà xuất bản Khoa học Xă hội in
năm 1983-84? Người ṭa soạn có tên là Phan Hoàng
trả lời: Chúng tôi thiết nghĩ ông nên gởi
thẳng câu hỏi này về Ban biên tập Từ
điển văn học và NXB KHXH. Tin rằng ông sẽ
nhận được hồi âm cho thắc mắc mà
dường như tất cả những người yêu
thích văn chương đều quan tâm. Chúng tôi chỉ
xin lưu ư, bên cạnh những nhà văn trên đây, c̣n
rất nhiều tên tuổi văn học đáng kính khác
cũng không hề được nhắc đến, dù
chỉ cái tên, trong bộ từ điển tầm cỡ
quốc gia này. Chẳng hạn như các bậc tiền
bối thời tiền chiến: Hoàng Đạo, Đinh Hùng,
Nguyễn Vỹ, Phạm Hầu, Đoàn Phú Tứ, Bàng Bá Lân...
cho đến những nhà văn nhà thơ góp phần
đáng kể vào diện mạo văn học Việt Nam
trong hai cuộc kháng chiến vừa qua: Lư Văn Sâm,
Dương Tử Giang, Vũ Anh Khanh, Trần Dần, Lê
Đạt, Phùng Quán, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Quang
Dũng...
Những nhà văn nhà
thơ, nhạc sĩ tầm cỡ như thế c̣n
chưa được ngồi sau porte bagage đèo xe
đạp vào văn học sử nữa là... Đừng nói
là người ta thiếu sót trong việc biên soạn, v́ ban
biên tập toàn là người có đầu óc, có văn hóa
được đào luyện. Sỏi đá xôn xao. Chúng tôi
cười x̣a, cũng xong cả thôi. Quan tâm làm đếch
ǵ đến chuyện đó.
Bạn bè lâu ngày gặp
nhau không cà kê dê ngỗng, th́ cũng dây cà ra dây muốn. Tôi
hỏi anh về việc cư trú, anh nói anh chưa có
hộ khẩu, đương nhiên không thể có chứng
minh nhân dân, chẳng có giấy tờ mẹ ǵ cho biết
anh là một con người sống trong chế độ.
"Ông có xin nhập
hộ khẩu sau khi đi học tập cải tạo
về không?"
"Có chứ sao không,
xin nhiều lần rồi mà người ta không cho, đôi
khi c̣n bị mắng mỏ khi xin giấy tờ, nên đành
́ ra, bị phạt th́ chịu thôi, chán rồi người
ta cũng nản."
Đến lúc ấy tôi
mới thấy Lê Xuyên x́ ra chuyện sống chết.
"Tớ cũng
nghĩ về những trường hợp của
những người chết chui."
Tôi ở dưới
chế độ này lâu lắm nên hiểu rất rơ từ
"chui" là ǵ, từ này được nhập cảng
vào miền Nam sau năm 1975. Chui có nghĩa là lậu, buôn
chui, bán chui, phở chui. Những thứ không
được công nhận. Chết chui th́ thảm lắm,
thảm c̣n hơn phở chui lèo tèo mấy miếng,
nước lèo th́ nhạt thếch nhạt thác đựng
trong b́nh thủy, bát phở không hành ng̣. Nói theo kiểu
thời thượng là "phở không người
lái".
Thi sĩ Bùi Giáng
chết, cũng ở dạng chết chui, nhưng v́ ăn
ở có đức nên được chôn cất đàng
hoàng, lại được người đời vớt
cho một câu: "Chúng tôi đă bỏ quên anh." Dù
rằng với cách sống của ông th́ ông cóc cần. Khoác
thêm cho cái xác lạnh tanh ấy một sơ mi gỗ hay
đội lên đầu thêm ṿng nguyệt quế nữa
th́ nhằm nḥ ǵ.
Thuở c̣n ăn
mắm mút ḍi, gạo châu củi quế, người dân
khoái xài đồ chui hơn là đồ quốc doanh. V́,
muốn ăn một bát phở quốc doanh phải xếp
hàng cả buổi, nhân viên phụ trách khâu bưng phở
mặt vác lên như ba cái thớt chồng lên nhau, dằn tô
phở trước người mua phiếu như ra ơn
ban phát, bố thí. Phở đồng loạt là phở chín,
khách hàng không nên đ̣i chín nạm gầu hoặc xin thêm
nước béo hành trần lôi thôi, chẳng ngon lành ǵ hơn
phở chui.
Người ta thèm
nụ cười cầu tài của anh bán phở chui,
lấy chuyện đó làm hài ḷng nên cũng ấm cái
bụng. Chứ không treo bảng "khách hàng là
thượng đế" như bây giờ.
Nh́n sang bên kia
đường tôi thấy một sạp báo. Báo chí
đủ các thể loại phục vụ độc
giả, sắc màu rực rỡ, hấp dẫn, in ấn
đẹp bằng mười ngày xưa, hơn thuở
tôi c̣n xách bút chạy rong nhiều. Sự tiến bộ
trong ngành báo chí trông thấy ngay trước mắt. Tôi nói
với Lê Xuyên:
"Có một dạo
tôi tính mở một sạp báo bán cho đỡ buồn,
nhưng rồi lại thôi, dù có mượn được
vốn."
"Tại sao vậy?”
Tôi lắc đầu:
“Sau những ngày thực
tập nghề bán báo, tôi bỗng cảm thấy buồn,
v́ ngày nào cũng đụng đến báo chí tự nhiên
ḿnh thấy nhớ nhung ǵ đâu không, cái dĩ văng làm báo
tội nghiệp của tôi ám ảnh tôi quá nhiều.”
Lê Xuyên vốn là
tổng thơ kư của nhiều nhật báo gật gật
đầu:
“Ờ ông nói có lư
đấy, chúng ta không thể hành nghề bán báo
được, sẽ buồn lắm, không như nghề
bán thuốc lá lẻ của tôi.”
Có người khách ghé
mua một gói thuốc lào. Bây giờ tôi mới biết anh
c̣n bán cả thuốc lào đượm khói dân tộc
nữa, nhặt nhạnh từng cắc một, quả là
con người lương thiện từ đầu
đến chân.
Chia tay chú Tư Cầu
v́ trời đă muộn. Gặp anh tôi không thể không
nhớ đến nhan đề một truyện dài
của anh là Gió đưa trăng. Sau này tôi biết
anh lấy từ câu ḥ trữ t́nh trên sông nước
Cửu Long. Câu ḥ như thế này: Gió đưa trăng,
trăng đưa gió, [con] trăng lặn rồi gió
biết đưa ai?...
Tôi như nghe thấy
tiếng ca trữ t́nh vút lên thinh không, man mác trên sông
nước Cửu Long, đồng bằng lúa gạo Nam
bộ. Tính chất Nam bộ trải dài trong tác phẩm của
anh và ở ngay chính con người anh. Trăng lặn
rồi gió biết đưa ai? Có phải một câu than
thở không? Tôi lẩn thẩn măi với câu hỏi ấy
trong đầu. Tôi nghĩ đến hát ru Nam bộ mà Lê
Xuyên đặt tên cho tác phẩm của ḿnh, có một câu
bỏ lửng.
Tôi về đến nhà
ở Ấp Đông Ba xưa vào buổi trưa, mở
truyền h́nh lên coi. Tôi nhận được tin cơn băo
số 6 đang trên đường đổ vào bờ
biển Việt Nam. Sao mà khổ thế nhỉ, bao nhiêu là
tai ương. Người ta kêu gọi nhân dân chống băo
lụt.
Tôi nghĩ hoài về nhà
văn Lê Xuyên. Mưa ập xuống ngập
đường như sông. Trên con đường Lê Xuyên
ngồi bán thuốc lá lẻ nước ngập
đến bụng, liệu Lê Xuyên có khiêng nổi xe
thuốc đội lên vai lên đầu để tránh
ướt không, bảo vệ cái vốn liếng nhỏ
bé, duy nhất của gia đ́nh anh trên đôi vai c̣m cơi.
Tôi lo lắng,
thương xót bạn, thầm cầu xin sự an lành
đến với anh. Năm hết Tết đến
rồi. Anh từng nói từ lâu rồi anh không có mùa xuân.
Nguồn: Chương VII: “Chú
Tư Cầu” Lê Xuyên, trích Giữa đêm trường,
hồi kư của Nguyễn Thuỵ Long (trang 101-114), nxb
Tiếng Quê Hương, Virginia 2000, USA, do Uyên Thao chủ
trương với sự cộng tác của nhiều
văn hữu. Địa chỉ liên lạc: P.O. Box 230113,
Centreville - VA 20120. Email: uyenthao@juno.com. Bản điện
tử do Nguyễn Đăng Thường thực
hiện.