THẾ KỶ CỦA VĂN HỌC QUỐC
NGỮ, THẾ KỶ XX
Nguyễn Văn Sâm
Trước khi người
Pháp chiếm Việt Nam ba từ thông dụng ‘quốc ngữ’, ‘quốc âm’,
‘quốc văn’ được dùng để chỉ
chữ Nôm, là thứ chữ dùng rộng răi trong dân chúng
nước Việt. Các bài thơ viết bằng chữ
Nôm của Nguyễn Thuyên v́ vậy được gọi
là thơ quốc ngữ. Cũng dùng trong nghĩa đó các
nhà văn xưa thường đề tên tác phẩm
của ḿnh với cụm từ quốc ngữ như
Quốc Ngữ Ca của Tả Ao, Quốc Âm Thi Tập
của Nguyễn Trăi...Lư Văn Phức, trong Nhị
Thập Tứ Hiếu nói rằng ḿnh muốn lưu gia phạm nên truyền quốc âm.
Ta không lạ khi thấy các quyển Y Dược Quốc
Ngữ Ca, Quốc Ngữ Gia Truyền, Quốc Ngữ
Mạch, Quốc Ngữ Mạch Ca ... cũng như các
quyển Quốc Âm Ca Dao Tập, Quốc Âm Ca Thi, Quốc Âm
Diễn Thi, Quốc Âm Diễn Tự, Quốc Âm Dụng
Dược Gia Truyền, Quốc Âm Phú... được
viết bằng chữ Nôm. Khi người Pháp chiếm xong
Việt Nam th́ ư nghĩa của từ quốc âm, quốc
ngữ, quốc văn bị đổi nghĩa. Ai cũng
biết bộ sách thông dụng Quốc Văn Giáo Khoa
Thư. Ai cũng nghe câu nói danh tiếng của Nguyễn
Văn Vĩnh: Nước Nam ta sau nầy hay hay dở là
cũng ở chữ quốc ngữ. Vậy th́ chữ
quốc ngữ là thứ chữ do các cố đạo
Bồ Đào Nha dùng các yếu tố trong chữ La tinh
để ghi âm tiếng Việt, chớ không c̣n là thứ
chữ thuộc khối vuông mượn từ các yếu
tố chữ Hán như trước nữa. Nhiều sách
vỡ c̣n ghi nhóm từ chữ
quốc ngữ mới, nhưng càng về sau th́ tính
từ mới rớt mất lần đi. Những chủ
nhân ông mới của nước ta muốn chánh thức
loại bỏ chữ Nôm, thứ chữ biểu ư, có nhiều khuyết điểm
để thay bằng thứ chữ mới biểu âm, đơn giản,
dễ học, là sản phẩm xa gần dính dáng
đến họ... (1)
Cũng giống như
trường hợp ở các nước Nhật Bản và
Trung Quốc trong việc phiên âm văn tự của hai
nước nầy bằng mẫu tự La tinh, các cố
đạo Tây phương ban đầu đặt ra
chữ quốc ngữ Việt Nam chỉ nhằm mục
đích giản tiện cho họ trong việc học
tiếng địa phương để giao tiếp và
truyền giảng mà thôi. Họ theo nguyên tắc ghi chép, theo
kư hiệu, tiếng nói của quốc gia mà ḿnh đương
truyền đạo. Họ không có ư định làm ra
một thứ chữ mới cho dân Việt, cũng không
nhằm ư hướng thay thế hệ thống chữ cũ
vốn từ lâu ăn sâu vào đời sống văn hóa
của dân tộc nầy. Tuy nhiên thứ chữ mới
được đặt ra nhờ ưu điểm
dễ học, dễ nhớ, dễ in, dễ viết.. nên
đă đi ra khỏi phạm vi họ đạo, về
sau lại được chánh quyền hổ trợ
để quảng bá, dần dần trở thành thứ
chữ chánh thức của cả nước, đánh
bạt thứ chữ quốc ngữ cũ, rồi theo
thời gian đă trở thành loại văn tự chánh
thống của nước Việt ta.
Không phải chữ quốc
ngữ không có những khuyết điểm (2) . Nhiều
người c̣n coi các dấu giọng là khuyết
điểm và muốn thay thế bằng các con chữ trong
mẫu tự La Linh mà chữ quốc ngữ chưa dùng
đến như j, z, f... Chữ quốc ngữ cũng
không thể ghi hết các âm địa phương của
người Việt cho nên chúng ta có t́nh trạng giọng
Miền Trung khác với chữ viết ở các dấu và
các âm cuối. Nhưng các khuyết điểm nầy nếu
sửa chữa th́ chữ quốc ngữ sẽ trở
thành quá rắc rối, mất ưu điểm đơn
giản vốn là yếu tính cơ bản của nó.
Cuối cùng th́ trong gần ba thế kỷ sanh thành và
hơn một thế kỷ tăng trưởng, với
thật nhiều đề nghị sửa đổi
nhưng không bao giờ được áp dụng (3) chữ
quốc ngữ đă giữ vai tṛ thật sự là văn
tự của nước ta tuy rằng về h́nh thức
nó không khác mấy với lúc được sáng chế. So
sánh chữ quốc ngữ ngày nay với bản in Phép Giảng Tám Ngày của A.
De Rhodes ta sẽ thấy ngay điều
đó.
Trong bao nhiêu năm
được sử dụng, thứ chữ nầy
tất nhiên ghi lại được đời sống
tinh thần của dân tộc cũng như ghi lại
một nền văn chương mới của người
Việt mà chúng ta gọi là nền văn chương
quốc ngữ của văn học Việt Nam. Và cho
đến bao giờ mà chữ quốc ngữ c̣n tồn
tại th́ văn học quốc ngữ vẫn c̣n tiến
triển không như các loại h́nh văn học Hán Nôm
đă thực sự đứng hẳn trong đời
sống văn chương Việt.
Tuy không ai hoang tưởng mà
cho rằng chỉ v́ những tiện lợi của
chữ quốc ngữ cho nên văn học Việt Nam
thế kỷ 20 nở rộ, chỉ riêng bước
đi của thế kỷ nầy không thôi cũng bằng
mấy lần của cả từ thời lập quốc
đến hết thế kỷ 19, nhưng ai cũng
nhận rằng chính h́nh thức đơn giản của
chữ quốc ngữ góp một phần quan trọng,
phần c̣n lại là các yếu tố khác như dân tộc
bớt bị câu thúc chặt chẽ trong tư
tưởng, giao tiếp dễ dàng với các trào lưu
văn minh, sự phát triển vượt bậc của
nền in ấn phát hành, t́nh trạng dân trí được
nâng cao... Khi làn sóng văn minh Tây Phương đến
đâu th́ tất cả mọi thứ nơi đó
đều nở rộ, đó là chuyện đương
nhiên, cho nên văn học quốc ngữ --nói cách khác là
nền văn học Việt Nam khi thật sự giao
tiếp với các trào lưu tư tưởng Tây
Phương cho tới ngày nay-- có vai tṛ thu nhận những
sức tiến bộ trong tư tưởng Âu Tây
để từ đó lấy đà kiến tạo một
h́nh thái văn học mới cho người Việt ngang
hàng với các nền văn học khác trên thế giới.
Sự thành công hay thất bại của vai tṛ nầy tùy
thuộc vào ư thức trách nhiệm của những
người làm văn nghệ và các cách sử dụng
văn nghệ của từng chánh quyền của mỗi
giai đoạn, đám đông quần chúng chỉ đóng
vai tṛ vô cùng thứ yếu mặc dầu lúc nào cũng
được đề cao là quan trọng.
Vậy th́ đặc tính
Văn học quốc ngữ trong hơn một thế
kỷ vừa qua như thế nào?
Tổng quan ta có thể
thấy các đặc điểm sau:
1 - Văn Học Quốc Ngữ, ngay từ những
năm đầu tiên, cố gắng tạo nên h́nh dạng
của ḿnh, cho có mặt cái đă. Chuyển qua một
dạng chữ viết mới với những cánh rừng
mịt mùng chưa khai phá trước mặt, người
viết không thể một sớm một chiều vứt
bỏ các cách thế suy nghĩ của viết lách cũ
xưa vốn mang nặng từ lâu. Họ cũng chưa
có kinh nghiệm để đi thẳng vào những
thể loại viết mới như văn xuôi, truyện
ngắn, truyện dài dầu đă thấy các thể
loại nầy thành công và đang thịnh hành trong văn
học Tây phương. Với những trở ngại
đó, Văn Học Quốc Ngữ một thời gian dài
ban đầu chỉ là một
h́nh thái khác của Văn học chữ Nôm. Nó chỉ
khác mới ở loại h́nh văn tự mà không khác
mới về mặt tư tưởng cũng như các
thể loại sáng tác. Nói cách dễ hiểu giai đoạn
đầu Văn Học Quốc Ngữ là Văn Học Chữ
Nôm hóa dạng.
2 - Có h́nh dạng rồi, mặc dầu c̣n thật mơ
hồ, Văn Học Quốc Ngữ cũng đă mạnh
dạn tiếp tục bước trên con đường
định h́nh. Công việc quan trọng nhưng không
tốn nhiều suy nghĩ là dịch các sáng tác phẩm ngoại
quốc sang quốc ngữ bằng văn xuôi, thể
loại mà văn chương chữ nôm trước đây
rất ít dùng, giờ đây thức giả ai cũng
thấy hai nước Trung Hoa và Pháp dùng nhiều. Việc
dịch thuật kiểu nầy có thể được
coi như công phu tập tành làm cho trơn tru cách viết
quốc ngữ sau nầy. Giai đoạn nầy cũng là
giai đoạn đi vào quảng đại quần chúng
bằng những chuyện ngoài đời được
viết bằng các sáng tác ngắn hơi xuất bản
dưới h́nh thức các tập sách mỏng hay in trên báo
chí. Tư tưởng văn học thuần túy của giai
đoạn nầy không có bao nhiêu, người viết
truyền bá lại những tư tưởng có sẵn do
thu thái được trong khi học khi đọc hơn
là sáng tác ra từ chính nội tại suy tư của ḿnh.
3 - Khi đă định h́nh rồi th́ Văn Học Quốc
Ngữ như tin tưởng hơn ở ḿnh. Với
những kinh nghiệm về câu văn trong việc
dịch, với những h́nh thức mượn của
văn học nước ngoài Văn Học Quốc Ngữ
lớn mạnh thật sự với sự rần rộ
của các truyện ngắn, truyện dài, thi ca, các tác
phẩm khảo cứu v.v. Đây là giai đoạn thật sự có mặt
của một nền văn học với tất cả
những cá biệt và vai tṛ của từng tư
tưởng, từng thời kỳ, từng người
viết...
4 - Sau khi cực thịnh, Văn Học Quốc Ngữ do
tầm ảnh hưởng sâu rộng của nó trong
quần chúng nên bị lợi dụng hay bị cuốn hút
vào ṿng chánh trị phe nhóm nhứt thời. Văn Học Quốc
Ngữ từ đây bị phân hóa theo bước đi
truân chuyên của dân tộc. Những năm căi cọ
giữa duy tâm và duy vật trước khi đất
nước chia hai, những năm thù nghịch tô hồng,
bôi bẩn, một chiều do sự lưỡng phân thành
hai nền văn học Quốc-Cộng và hai khuôn mặt
văn học trong-ngoài nước Việt... đều có
nguyên ủy từ ảnh hưởng quá mạnh của
văn học quốc ngữ trong dân chúng. Văn học
thời nầy không giống như thời xưa, cách xa
với chánh trị, gần gũi với dân chúng và xuất
phát từ cái tâm không nhiễm trần lụy của
người viết. Thời nầy, đa phần văn
học không phản ảnh được nội tâm
thật sự của tác giả mà biểu lộ phần
lớn con đường chánh trị họ bước
theo, dầu ư thức hay không ư thức, trực tiếp hay
gián tiếp.
Mỗi giai đoạn,
nếu đi sâu vào chi tiết ta có thể chia làm nhiều
giai đoạn ngắn hay những sự kiện nổi
bật (khuynh hướng, nội dung, thể loại...)
những nhân vật tên tuổi gắn liền với
văn học (nhà văn, nhà thơ, nguời viết sách
báo... ) cũng như những trường hợp đi
ngoài con đường tổng quát của trào lưu.
Vậy th́ dựa theo nhận
xét trên ta có thể chia Văn Học Quốc Ngữ thành
ba giai đoạn chính:
- Giai đoạn đầu: 1862 - 1897
Giai đoạn nầy bắt
đầu từ năm 1862, năm người Pháp đánh
lấy và đặt nền cai trị ở ba tỉnh
miền Đông Nam Kỳ đến năm 1897, là năm ra
đời của tờ báo Nam Kỳ Địa Phận
ở Sàig̣n (hay những năm gần đó như 1898,
năm Trương Vĩnh Kư từ trần, 1901, năm
tờ Nông Cổ Mín Đàm xuất bản.)
Thời gian nầy chữ
quốc ngữ mới thật sự bước vào vùng ánh
sáng ra mắt quảng đại quần chúng trong khi
chữ Nôm và chữ Hán đă có mặt và đương
chống trả lại để khỏi bị đào
thải. (4) Là thứ chữ đi sau, được
hợp thức hóa bởi tân trào và dùng bởi những
người gọi là theo tân trào, được yểm
trợ bởi những người ‘theo Hoa Lan đạo’
mặc dầu hiện tại đang có thế giá và vai tṛ
chánh trị (5) nhưng chữ quốc ngữ lúc khởi
thủy không được số đông đảo
người theo. Thời nầy c̣n để lại
biết bao giai thoại về những gia đ́nh giàu có khi
bị làng xă chỉ định con cái phải theo học
chữ quốc ngữ đă mướn người đi
học thế để con ḿnh ở nhà theo mấy chữ
chi hồ giă dă gọi là nối gót con đường thánh
hiền của ông bà. Câu thơ của Trần Tế
Xương vất bút lông
đi lấy bút ch́ là một lời mỉa mai thứ
chữ của tân trào hơn là một sự biểu
đồng t́nh của người theo mới. Thời
nầy nếu ai dùng chữ quốc ngữ để sáng
tác th́ chắc chắn rằng họ cũng là người
đă được đào luyện trong nền học
vấn cũ, họ v́ vậy cảm thấy thoải mái
trong việc viết bằng chữ Hán chữ Nôm hơn là
thứ chữ mới cho nên khi viết bằng quốc
ngữ th́ họ suy nghĩ và đi theo những khuôn phép
của chữ Nôm, chỉ chuyển dịch điều ḿnh
viết ra loại h́nh quốc ngữ mà thôi. (6)
Đọc bài thơ Tuyệt
Mạng (7), bài Nhứt Nhựt Thanh Nhàn hay bài thơ
Thường Bả Nhứt Tâm Hành Chánh Đạo (8)
của Trương Vĩnh Kư không ai nghĩ rằng
những bài nầy được viết bằng quốc
ngữ. Ai cũng thấy rơ ràng rằng cảm hứng,
nghệ thuật, cung cách diễn tả, cách dùng chữ
đều không khác ǵ sáng tác của các nhà văn Nôm Húnh
Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị,
Tôn Thọ Tường (9), Nguyễn Khuyến của
thời kỳ nầy. Đọc bài thơ quốc ngữ
Lên Chơi Núi Điện Bà (10) của Sương
Nguyệt Anh, ai cũng thấy rằng những yếu
tố văn chương và tư tưởng không khác ǵ
hết với Bà Huyện Thanh Quan.
Một tác giả khuyết
danh, với bài Ngũ Canh Văn đăng trong tờ học
báo Thông Loại Khoá Tŕnh của Trương Vĩnh Kư vào
năm1889 (11):
Chạnh ḷng khoăn khoái
tưởng lo xa,
Mới đó sao canh đă đến ba.
Sương bủa ḥa trời sao rải rác,
Tuyết giăng khắp núi nguyệt dần dà.
Bâng khuâng sầu thúc khôn cầm lụy,
Thốn thức (11B) buồn tuôn biếng nói ra.
Những mảng so đo t́m lẽ hỏi,
Hỏi ai hơn hỏi tấm ḷng ta....
Con đường sáo ngữ
của thơ nôm vẫn c̣n để lại dấu
vết sau đậm trên bài thơ nầy: tuyết
giăng khắp núi, không cầm lụy, buồn tuôn biếng
nói... Đó là chưa kể chính h́nh thức
Đường luật đă làm cho người
đọc khó phân biệt được đâu là thơ
quốc ngữ, đâu là thơ nôm.
Đọc một đoạn
thơ sau, bạn nghĩ rằng đây là sản phẩm
bằng quốc ngữ hay bằng chữ Nôm, nó có gốc
tích bên Tàu hay bên Tây?
Có người phú quí trên
đời,
Húnh Trâm tổng trấn ở nơi tây thành.
Ḷng nhơn đạo, nết hiền lành,
Xa xôi mến đưc, gần quanh đẹp ḷng.
Một ngày rảo bươc thơ pḥng,
Xem hai bức tượng, xét đồng tài nhau.
Phút đâu nghe động cửa lầu,
Giựt ḿnh ngước mặt day đầu ngó ra.
Thấy công tử bước vào nhà,
Tuổi xuân tươi tắn, mặt hoa vui mầng.
Hỏi rằng ’gặp hội long vân’
Bảng rồng tên đứng đặng lần
nầy chăng?
Con là An-Pháp thưa rằng...
Thưa đấy là phần
đầu của truyện Phú Bần Truyện Diễn Ca
(12) của Thế Tải Trương Minh Kư. Đây là
bản dịch ra quốc ngữ một quyển tiểu
thuyết Pháp thời đó. Dịch giả đă sử
dụng thể lục bát mà nguyên tác chúng ta có thể
quyết đoán rằng được viết bằng
văn xuôi. Lư do cũng dễ hiểu thôi, Trương Minh
Kư vẫn c̣n chịu ảnh hưởng của nền
văn học Hán Nôm với sự lấn lướt
của các thể loại văn vần, ông viết văn
vần dễ dàng hơn viết văn xuôi.....
Giai đoạn nầy có tác
giả lại in tác phẩm ḿnh bằng hai thứ
tiếng, khi th́ bằng quốc ngữ, khi th́ bằng
chữ Nôm (13). Ông Trương Minh Kư viết nhiều sách,
in quyển Như Tây Nhựt Tŕnh của ḿnh bằng
chữ Nôm. Bản quốc ngữ cũng phát hành khoảng
thời gian nầy (14). Có tác giả, v́ lư do nầy khác,
được dịch tác phẩm ḿnh từ quốc
ngữ ra chữ Nôm (15). Điều nầy càng cho thấy
rằng đối với người chú trọng
đến văn chương Việt Nam thời nầy
chỉ có sự thay đổi về h́nh thức văn
tự, chứ chưa có sự thay đổi dứt khoát
trong bất kỳ yếu tố ǵ của sự tạo
thành một tác phẩm văn chương.
Thời nầy, để
củng cố chữ quốc ngữ, để cho dân chúng
làm quen với thứ chữ mới, các tác giả quan
trọng lo viết sách dạy chữ quốc ngữ,
(Trương Minh Kư, Petrus Kư), soạn tự điển
(Petrus Kư, Húnh Tịnh Của ) sưu tập các câu ca dao,
tục ngữ (Húnh Tịnh Của, Petrus Kư), ghi chép các
truyện kể trong dân gian (Húnh Tịnh Của, Petrus Kư).
V́ chưa muốn đoạn tuyệt hẳn với
nền văn hóa Hán học nên các tác giả nầy cũng
lo dịch thuật các tác phẩm nho gia có giá trị lâu dài
(Petrus Kư), phiên âm và chú giải các tác phẩm được
viết bằng chữ Nôm (16) (Húnh Tịnh Của,
Trương Minh Kư, Petrus Kư) hay cố gắng diễn
tả những vấn đề đương thời
bằng quốc ngữ (Trương Minh Kư, Húnh Tịnh
Của, Petrus Kư). Nh́n chung các công tŕnh nầy thật là có giá
trị, cho tới nay cả trăm năm sau, không mấy
ai có công nghiệp vượt qua những vị nầy.
Bộ tự điển Đại Nam Quốc Âm Tự
Vị (1896) của Húnh Tịnh Của là công tŕnh khoa
học, nghiêm túc, kế thừa được những ǵ
các cố đạo đi trước đă làm c̣n ghi
lại được thực trạng của ngôn ngữ
Việt Nam cuối thế kỷ 19, đến bao giờ
c̣n có người nghiên cứu văn học thế kỷ
18, 19 , c̣n có người muốn biết trước
đây ông bà chúng ta nói chuyện bằng những ngôn từ
như thế nào, sinh hoạt ra sao th́ quyển tự
điển nầy c̣n có ích lợi thực dụng (17).
Quyển Như Tây Nhựt Tŕnh cho thấy được
tinh thần hiếu học, muốn biết thật
tường tận, thật nhiều chuyện khi tác
giả đến một vùng đất lạ; các bản
phiên âm tuồng Phong Thần Bá Ấp Khảo, Tuồng Thúy
Kiều là sự giữ ǵn thật hữu hiệu phần
nào tài sản quư giá của dân tộc (18). Các công tŕnh văn
hóa của Petrus Kư là những viên gạch vững chăi
nhứt để lót con đường xa lộ thênh thang quốc
ngữ về sau nầy, việc đi sâu vào từng tác
phẩm của ông cũng không phải là chuyện dễ
dàng v́ ông rẽ sang nhiều ngành quá chuyên môn. Riêng quyển
Nữ Tắc ông phiên âm cẩn thận và chú thích
tường tận đến nay ta khó ḷng làm hơn
được đối với một quyển nôm nào
đó tương tợ. Cũng nhờ có ông mà tác phẩm
nầy tồn tại v́ cho tới ngày nay chúng ta không c̣n
thấy ở đâu chứa bản chữ Nôm Nữ
Tắc nữa! (18B) Quyển Đại Nam Quốc Sử
Diễn Ca ông phiên âm và xuất bản cách đây hằng
trăm năm cho đến bây giờ các bản in lại
đều dựa một phần lớn trên công tŕnh đó
với những thêm thắt thật nhỏ, không đáng
kể, đó là chưa kể có những sửa chữa làm
cho sai ĺa nguyên tác! Quyển Phong Hóa Điều Hành của
ông, tuy là sự thu góp túi khôn của các hiền sĩ
mượn từ các sử sách và chuyện đạo Tây phương
nhưng cũng đưa ra được những
chuẩn thằng của con người phải sống
xứng đáng con người trong thời đại giao
tiếp với Tây Phương. Các bài Kiếp Phong Trần,
Bất Cượng... nói lên quan niệm sống Trung dung,
thanh bần, bất cầu của ông. Nói một cách khác,
về tư tưởng Trương Vĩnh Kư xa gần
muốn đặt ra những cương chỉ cho con
người quân tử mới trong hoàn cảnh mới có
bóng dáng người cai trị mắt xanh mũi lơ trên quê
hương chúng ta.
Về văn từ, nh́n chung,
ta có thể thấy trong bất cứ sách nào của
những người thời nầy là một thứ
văn chương không có mục đích làm văn chương,
thứ văn-chương-đời-sống-hằng-ngày
để sự thấm nhuần của người
đọc được tối đa về mặt ư
tưởng.
Thời nầy một ngôi sao
loé lên trong một công việc mà chưa ai làm trước
đó là viết truyện ngắn theo lối Tây
Phương: ông Nguyễn Trọng Quản. Văn Nguyễn
Trọng Quản gọn gàng, sáng sủa, kể truyện
không rườm rà, hợp lư tuy rằng nghệ thuật
dựng truyện của ông chỉ là nghệ thuật
bước đầu của truyện ngắn. Nh́n chung,
giá trị lịch sử của truyện ngắn
Truyện Thầy Lazarro Phiền mở đầu cho
sự bứt xiềng ra khỏi những vướng víu
ràng buộc với văn chương Hán Nôm của thể
loại sáng tác bằng văn xuôi vốn chỉ mới là
những bước chân ṃ mẫm dè dặt từ Húnh
Tịnh Của và Petrus Kư trong các Truyện Khôi Hài và
Truyện Đời Xưa. Tiếc rằng Nguyễn
Trọng Quản viết chỉ độc có truyện
đó rồi thôi-- dầu rằng ông có quảng cáo một
cuốn nữa đă viết xong. Không có ai theo chân ông
liền sau đó nên thể loại truyện ngắn
vắng mặt một khoản thời gian tương
đối dài, phải đợi mấy chục năm sau
mới trở lại trên địa bàn văn chương
miền Bắc bằng các sáng tác của Phạm Duy
Tốn, Nguyễn Bá Học... (19)
Thời nầy cũng có lác
đác vài tác phẩm liên quan đến chánh trị,
hoặc là ủng hộ tân triều, hoặc là kể
tội tân triều cùng những người theo chân bọn
họ. Vè Khâm Sai, chống Pháp, chúng ta chỉ thấy
được dạng quốc ngữ do Trương
Vĩnh Kư in trong Thông Loại Khóa Tŕnh nhưng không cho
biết trước đây nguyên văn được
viết ở dạng nào. Khảo cứu các tác phẩm
nầy thuộc một đề tài tổng quát về
văn chương hay tư tưởng Việt Nam, phù
hợp hơn đề tài Văn Học Quốc Ngữ
vốn dĩ giới hạn trong h́nh thức.
Vè Khâm Sai, có đoạn sau
đáng được trích dẫn:
Sau lên Phong thữ, Nghĩa dơng
tứ vi.
May chẳng hề chi, nhờ ba chú Pháp.
Thân qua Yển giáp, Trở lại La Thanh.
Từ ấy thất kinh, vừa làm vừa sợ.
Tướng chi, tướng dỡ! Vị luyện quân
tinh.
Chẳng có Tây binh, e không khỏi chết... (20)
Bài Tân Trào Nhơn Chánh Ca, thân
Tây, sau khi ca tụng Tân trào làm nhiều điều hay
như là: sửa cầu (tu-kiều), bồi lộ, đào
kinh, trồng trái (chưởng đậu), sưu thuế
có hạng thứ lề luật, lập nhà thương,
lập dây thu lôi, làm nhà dây thép.... tác giả khuyên
người dân:
Nắng bề nào phải cho
xuôi đỡ bề,
Làm ăn theo phận thú quê.
Thính thiên thuận mạng chớ hề thày lay,
Phận ḿnh bụi bụi tro bay,
Dễ đâu châu chấu chống nay xe rồng... (21)
Tóm lại, bước
đầu trong việc vun trồng cho lớn mạnh cây
tùng bách Văn Học Quốc Ngữ là công tŕnh của
những cây bút cự phách trong vùng lưu dân tân địa
Nam Kỳ. Về sau Miền Bắc ngàn năm văn
hiến mới nối tiếp với những tác giả
làm việc không biết mệt mỏi của các nhóm
Đông Dương Tạp Chí Và Nam Phong Tạp Chí.
Thời kỳ nầy, dầu
quốc ngữ mới manh nha người ta đă thấy ảnh
hưởng của nó cho nên các xu hướng chánh trị
cũng phản ảnh trên các sáng tác thời đó.
- Giai đoạn h́nh thành:
1897 - 1930
Những sáng tác ngắn hơi
:
Các sự kiện nổi
bật của giai đoạn nầy là những sáng tác
ngắn hơi có tánh cách thời sự ở trong Nam và hai tờ
báo quan trọng đến con đường học
thuật Việt Nam ở ngoài Bắc.
Sau khi các tờ báo Nam Kỳ
(Địa Phận, 21 10 1897), và Nông Cổ Mín Đàm (1 8
1901) xuất hiện và sống mạnh, các người
viết lách thời đó đă thấy rằng chuyện
thời sự vốn được quần chúng ưa
thích hơn chuyện văn chương chữ nghĩa
thuần túy cho nên trong hai thập niên đầu của
thế kỷ 20 chúng ta có thật nhiều những tác
phẩm ngắn hơi, viết bằng thể lục bát
b́nh dân, nói về chuyện thiên hạ sự: Chuyện con
gái kén chồng, rồi lỡ thời, chửa hoang (Vè con
gái kén chồng của Đặng Văn Chiểu (22) ).
Chuyện vợ lớn vợ bé (Vè con cua của Phạm
Thành Kỉnh, Vè vợ Tây của Trần Thiện Thành, Vè
Vương sinh mê mèo bỏ mạng của Lê Trung Thu, Vè
vợ lớn vợ bé, Vè vợ nhỏ đánh vợ
lớn của Nguyễn Đăng Hưỡng, Vè vợ
lớn vợ bé đánh ghen của Đinh Thái Sơn. Các
chuyện về du côn, tù rạc, cờ bạc, hút sách...
(Thơ Sáu Nhỏ, Thơ Sáu Trọng, Thơ Cậu Hai
Miêng, Thơ Năm Tỵ, Thơ Vân Tiên ghiền, Thơ Vân
Tiên Cờ Bạc)... .
Xem bảng quảng cáo sách
mới in ra tháng 9 1915 của nhà xuất bản J. Viết
ta thấy tính chất thời sự được nhà
xuất bản chú ư: Vè cô Năm nhỏ, Vè thiện ác
đáo đầu, Vè cứu vật vật trả ơn, Vè
các thím đánh bài giờ, Vè Châu Thành Sàig̣n, Vè gái du giang
hồ, Vè anh hà tiện, Vè giải oan cho vợ chệt
vợ chà... (23) Thư Viện Quốc Gia Pháp c̣n chứa nhiều
các quyển loại nầy như: Vè Chết Chém Lê
Hườn Nhi Long, Vè Ông Già Mười Bảy Cưới
Gái Bảy Mươi, Vè Cô Năm T. Chôn Con, Thơ Mẹ
Ghẻ Giết Con Ghẻ, Thơ Mừng Đại Pháp
Quốc Với Đồng Minh Thắng Trận, Thơ
Tuồng Lính Tập Đi Tây, Thơ Phan Xích Long Hoàng
Đế Bị Bắt, Vè Máy Bay....
Tôi cho rằng người
viết văn thời nầy đă coi chữ quốc
ngữ như phương tiện hữu hiệu nhứt
để nói với đám đông quần chúng về
chuyện hằng ngày, chuyện trời ơi đất
hỡi thấp tè tè trên mặt đất: chuyện lưu
truyền trên cửa miệng của giới b́nh dân. Nó
đă thật sự là công cụ ghi nhận của thể
loại văn chương truyền miệng, nó nhắm
về những chuyện đầu môi chót lưỡi
của con người sống thật sự sống
ở trên đời. Hết rồi thời của văn
chương chữ nôm với công chúa công nương,
đi đâu cũng có vài ba tỳ nữ. Hết rồi
thời của Hoàng tử, công tử tướng văn,
tướng vơ, hoàng hậu, vua cha... Bởi vậy văn
viết lúc nầy không có bộ áo trau chuốt, tươm
tất, đă dài ḍng c̣n lập đi lập lại như
người nói chuyện đương t́m ư, kiếm
từ. Cũng v́ đặc tính b́nh dân về mặt văn
chương đó ta thấy được rơ ràng như
cụ thể trước mắt ta đời sống xă
hội của thời đại, một đời
sống không phải được đánh bóng bằng
những mài gọt, cắt xén của từng lớp nhà
văn khoa bảng, chức quyền ở trên cao thời
trước hay tầng lớp học thức Tây phương
xa rời quần chúng sau nầy.
Đọc một đoạn
thơ Sáu Nhỏ:
Bây giờ khó nỗi vẫy
vùng
Quản Long đánh chửi vốn không có chừa.
Ma tà cai đội không vừa
Không có đút nhét sớm trưa hành hà.
Luận suy thôi lại thở ra
Vận thời xét lại thiệt là chẳng yên.
Khôn cùng thảm thảm phiền phiền
Ngồi buồn nhớ đến Tôn quyền Châu Do.
Ở đời cuộc thế đắn đo
Nhiều năm đày đọa cam go thân ḿnh.
Lâm râm khấn với thiên đ́nh
Nửa đêm th́nh ĺnh phá khám Long Xuyên.
Mở mấy chú tôi bị xiềng
Khám đường thả tội nó liền tuôn ra.
Trước sau lính gác ma tà
Trống quân hồi một tựu mà phủ vây.
Quản Long quở mắng vang dầy
Làm sao đến nỗi hội nây rộn ràng (24)
Các việc phiên âm quốc
ngữ thời bây giờ thật là rần rộ. Mỗi
tác phẩm nôm thường được hai ba, có khi
bốn phiên giả chuyển hệ sang quốc ngữ
với những thêm thắt, sửa đổi mà các vị
nầy gọi là ‘bổn cũ soạn lại’. Việc
phiên âm với toàn quyền sửa lại bổn cũ
như vậy dĩ nhiên làm mất đi tính cách chân xác
của nguyên bản Nôm, nhưng ngược lại cũng
thúc đẩy được việc đọc,
đưa tới tay số đông đảo quần chúng
một tác phẩm kiện toàn hơn, trong khi trước
đó việc đọc những tác phẩm Nôm vốn là
công việc của một số ít ỏi người có
học hành và tiền bạc. Tất cả hàng mấy
chục truyện thơ b́nh dân như Lư Công, Chiêu Quân
Cống Hồ, Thạch Sanh Lư Thông, Lâm Sanh Xuân Nương,
Thoại Khanh Châu Tuấn, Nam Kinh Bắc Kinh, Nàng Út, Ông
Trượng Tiên Bửu... được phổ biến
là nhờ giai đoạn sửa lại bổn cũ
nầy, một giai đoạn không ai phủ nhận
được công tŕnh chuyển biến từ h́nh
thức Nôm sang h́nh thức Quốc Ngữ.
Một số người sau
một thời gian làm công việc dịch thuật và
sửa lại bổn cũ, cảm thấy tin
tưởng ng̣i bút của ḿnh hơn bèn bỏ công ra
viết tuồng, viết truyện thơ, sáng tác truyện
ngắn. Đó là các ông Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong
Sắc, Đặng Lễ Nghi... Những người
nầy mở đường cho các nhà văn sáng tác sau
đó hằng chục năm như Lê HoằngMưu,
Trương Như Toản...
Giai đoạn nầy có
sự chuyển h́nh từ thi phổ sang ca khúc với
sự phổ biến rộng răi của chữ quốc
ngữ. Mặt đờn ca hồi những thập niên
mười phát sinh ca cải lương đă đành,
mặt in ấn các bài ca thời nầy thúc đẩy
sự hoàn thành mau chóng hơn thể loại văn hóa
đặc biệt của thế kỷ nầy. Không
thể kể hết các bản in và người
đặt, chép bài ca, chỉ xin ghi lại một vài: Bài Ca
Cải Lương, Bài Ca Lục Vân Tiên, Bài Ca Sáu Trọng
(25), Bài Ca Thập Nhị Tứ Hiếu, Bài Ca T́nh Nhân, Bài Ca
Tứ Tài Tử, Bài Ca Lục Tài Tử, Bài Ca Bát Tài Tử,
Bài Ca Thập Tài Tử, Bài Ca Thập Nhị Tài Tử... và
xin ghi nhận rằng về nội dung các bài ca vẫn bám
vào các đề tài trong những tác phẩm giờ đây
đă được chuyển sang quốc ngữ, chứ
không tự ḿnh đứng riêng như một tác phẩm
độc lập phát xuất từ trí tưởng
tượng của người viết. Các bài ca nầy là
những viên gạch căn bản, giá trị, chúng sẽ
hợp nhau lại thành lâu đài cải lương
chừng độ chục năm sau đó.
- Vai tṛ của báo
chí:
So sánh với báo chí, sách vở
thua xa việc phổ cập trong quần chúng. Báo chí
cũng dễ dàng trong việc viết lách v́ mỗi một
số có thể chứa thật nhiều đề tài khác
nhau, phục vụ cho nhiều người tŕnh bộ
bất đồng và sở thích khác biệt. Sách vở nói
nhiều đến các tờ báo đầu tiên là Gia
Định Báo, Đại Nam Đồng Văn Nhựt Báo
v.v.. cũng v́ lẽ đóng vai tṛ lịch sử của nó,
xuất hiện sớm. Từ rất lâu ông Trương
Vĩnh Kư với nhận định của ḿnh, đă cho
xuất bản một tờ học báo để giới
thiệu các vấn đề liên quan tới văn học
Việt Nam bằng quốc ngữ, đó là chuyên san Thông
Loại Khóa Tŕnh Miscellanées (5- 1888). Ông nói trong số ra
mắt tờ học báo nầy cái tôn chỉ và mục tiêu
của ḿnh:
‘Coi sách lắm nó cũng nhàm; nên
phải có cái chi vui pha vào một hai khi, nó mới thú.
Vậy ta tính làm ra một tháng đôi ba kỳ, một tập
mỏng mỏng nói chuyện sang đàng quốc chí, pha phách
lộn lạo, xào bần để cho học tṛ coi
chơi cho vui. Mà chẳng phải là chơi không vô ích
đâu: cũng là những chuyện con người ta ở
đời nên biết cả. Có ư, có chí th́ lâu nó sẽ
thấm...’ (26)
Đó không phải là tờ báo
đúng nghĩa mà là tờ học báo cho nên ảnh
hưởng trong học giới và học sinh th́ nhiều
mà tác dụng trong quần chúng th́ không có mấy. Thông
Loại Khóa Tŕnh sống không đầy hai năm th́
đ́nh bản v́ người chủ trương không
lấy lại được vốn bỏ ra hằng
kỳ. Tiếc thay! Nh́n chung Thông Loại Khóa Tŕnh mạnh
về phương diện sưu tập, bảo tồn mà
vắng bóng những nhận định cũng như sáng
tác đương thời. Riêng giá trị bảo tồn tư
liệu thôi, Thông Loại Khóa Tŕnh cũng đáng cho ta trân
trọng bởi v́ ta không
gặp đâu khác rất nhiều bài đặc biệt
trong đó, nhứt là Lời Truyền Thị của Tôn
Thọ Tường, Vè Khâm Sai của nghĩa quân kháng Pháp.
Phải đợi đến
hai tờ Nam Kỳ Địa Phận và Nông Cổ Mín
Đàm vai tṛ của báo chí quốc ngữ mới nổi
bật. Nông Cổ Mín Đàm (濃賈茗談, Causeries sur l’Agriculture et de
Commerce) số đầu tiên ra ngày 1 tháng Tám, 1901, sống
rất lâu, hơn hai mươi năm, thay đổi
nhiều chủ bút chủ nhiệm nên đường
lối cũng đổi thay... một sự khảo sát
tường tận về tờ báo nầy là việc khó
khăn, ở đây chúng tôi chỉ nói đại
lược về giai đoạn hai năm đầu tiên
nó xuất hiện.
Đây là một tuần báo, 8
trương, khổ 1/4 tờ báo lớn ngày nay. Chủ
nhơn (=nhiệm ) là người Pháp rành tiếng Việt
và sống rất lâu và làm ăn lớn ở Việt Nam tên
Canavaggio, chủ bút là nhà văn Lương Khắc Ninh,
tục gọi là Hội Đồng Ninh v́ ông có mấy
nhiệm kỳ làm Hội Đồng Quản Hạt .
Trong số ra mắt có
viết lời trần t́nh của chủ nhơn và lư do làm
báo đáng cho ta chú ư:
Hai mươi năm chẵn ở miền Nam thổ,
nay đă tiệm thành cơ chỉ qui mô. Đường
thiên lư tục t́nh dầu khác, đạo cang thường lễ
nghĩa như nhau. Nơi nơi cũng tạo doan hồ
phu phụ. Việc hiếu sự nay đà rang rảnh, t́nh
thê nhi thêm lại rịch ràng (27). Vậy nên công việc
từ hưu, vui theo thú thê tŕ nông cổ. Thương nam
thổ dường như cố thổ, mến Nam nhơn
quá bằng Tây nhơn, muốn sao cho nông cổ phấn hành,
sanh đại lợi cùng nhau cộng hưởng. Vậy
nên sức lập nên nhựt báo, thông t́nh nhau mà lại
rộng chỗ kiến văn, lần lần liệu ta
cử đồ đại sự.
Trong Đông cảnh
nước Cao Ly, Nhựt Bổn, nước Xiêm La cùng
nước Đại Thanh đâu đâu cũng đều
có công văn nhựt báo. Há Lục Tỉnh anh hùng trí dơng,
lại khoanh tay ngồi dậy mà xem, không thi thố cùng
người trục lợi...
Tờ báo bằng giọng
văn nhiều tính biền ngẫu, sai nhiều lỗi
chánh tả nên hơi xưa so với tờ Nam Kỳ
Địa Phận xuất bản cùng thời. Báo viết
những bài có tính cách cổ động cho công việc phát
triển canh nông, chấn hưng thương nghiệp,
giải thích khế ước và thương hội.. .
Để đỡ khô khan thỉnh thoảng báo có
đăng các truyện sáng tác hay truyện dịch từ
sách Tàu, dưới dạng văn xuôi hay văn vần,
của Lương Khắc Ninh, Nguyễn Viên Kiều, Nguyên
Liên Phong, Nguyễn Khắc Huề, Nguyễn Thiện
Kế, Đặng Quí Thuần, Lương Ḥa Quí, Trần
Giải Nguơn, Nguyễn Dư Hoài, Nguyễn Chánh Sắt,
Nguyễn Viết Khuông, Thổ Châu thơ sanh, Nam Song
thị, Trần Khắc Kỷ, Lê Hoằng Mưu, Tô
Ngọc Đường.... Chính các người nầy,
với các bài của họ, tạo nên sự lớn
mạnh của Văn Học Quốc Ngữ trong những
bước đầu, ít nhứt là trong Nam Kỳ Lục
Tỉnh. Từ năm thứ hai tờ báo mở ra mục
Thi Phổ đăng thơ của các bạn đọc và
văn hữu cộng tác. Các thơ nầy phần lớn
theo thể Đường luật và xướng họa
thù tạc nên giá trị văn chương không nhiều.
Các bài sưu tầm văn
chương trong Nông Cổ Mín Đàm nh́n chung giá trị
bảo tồn cũng giống như TLKT trước
đó. Bản dịch Tam Quốc Chí kư tên Canavaggio là bản
dịch Tam Quốc Chí ra quốc ngữ đầu tiên
ở nước ta, trước bản dịch của
Phan Kế Bính hơn một thập niên, đăng hơn
năm năm từ số 1 đến số 210 là các
số báo mà chúng tôi tham khảo được trước
đây. Một số người ngờ rằng bản
dịch nầy là của Lương Khắc Ninh,
điều đó không có ǵ làm bằng chứng. Xét về văn
phong của Lương khắc Ninh th́ ta thấy không
phải, ông nầy dùng nhiều biền ngẫu, chữ
sử dụng cao kỳ mà dư thừa trong khi bản
dịch Tam Quốc Chí đúng là h́nh thái văn xuôi, không có
những tiểu đối, chữ dùng lại dễ
hiểu b́nh dân, tỏ ra là tài lực của một người
ít chịu ảnh hưởng của Hán học.
Đó là chuyện đầu
thế kỷ ở trong Nam, sau đấy một thập
niên ở ngoài Bắc chúng ta có hai tờ báo nổi bật,
tạo thế đứng vững mạnh cho Văn Học
Quốc Ngữ là Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong
Tạp Chí.
- Đông Dương Tạp Chí: (1913-1919) số đầu
tiên ra mắt là ngày 15-5-1913. Do t́nh h́nh chánh trị, Đông
Dương Tạp Chí được người Pháp cho ra
đời với mục đích tuyên truyền cho công
cuộc đô hộ và dè-bỉu những chống
đối. Dần dần về sau các người chủ
trương đă khéo léo lèo lái thành một tờ báo văn
nghệ và học thuật rất phong phú. Trần Trọng
Kim viết về Sư Phạm, Nguyễn Văn Tố
trích tuyển Pháp văn, Phạm Duy Tốn viết
truyện ngắn, Phan Kế Bính và Nguyễn Đỗ
Mục dịch thuật các tác phẩm Hán văn, Nguyễn
Khắc Hiếu nghị luận về thi ca, Nguyễn
Hữu Tiến , Nguyễn Bá Trạc, Thân Trọng Huề
viết những điều thuộc về tư
tưởng và học thuật Việt Nam...
- Phong Tạp Chí: (1917-1934) là tờ báo có
ảnh hưởng trong giới trí thức thời
nầy, do Phạm Quỳnh chủ trương và viết
gần như tất cả các mục. Lúc nầy quốc
ngữ đă lớn mạnh lại càng lớn mạnh
hơn khi Phạm Quỳnh hô hào phổ biến quốc
ngữ bằng cách dung hợp với tư tưởng Tây
phương. Do sự làm việc cần cù và nhiệt tâm
ông đă đem rất nhiều điều mới lạ
trong sách vở Tây Âu thời đó diễn dịch ra
quốc ngữ khiến cho thứ chữ viết nầy
có dịp cọ xát với các vấn đề khó khăn
để chứng tỏ khả năng diễn
đạt của ḿnh. Cho đến ngày nay những
điều viết trong Nam Phong Tạp Chí phần lớn
vẫn c̣n giá trị, tờ báo đáng được trân
trọng như nó đă được trân trọng là di
sản văn hóa của dân tộc trong bao lâu nay.
Về hai tờ Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong
Tạp Chí, Giáo Sư Dương Quảng Hàm kết
luận rất cô đọng và chân xác:
Ông Vĩnh có công diễn dịch những tiểu
thuyết và kịch bản của Âu Tây và phát biểu
những cái hay trong tiếng Nam ra; ông Quỳnh th́ có công dịch
thuật các học thuyết tư tưởng của Thái
Tây và luyện cho tiếng Nam có thể diễn đạt
được các ư tưởng mới. Đối với
nền văn hóa cũ của nước ta th́ ông Vĩnh
hay khảo cứu những phong tục tín ngưỡng
của dân chúng, mà ông Quỳnh thường nghiên cứu
đến chế độ văn chương của
tiền nhân.
Văn ông Vĩnh có tính cách giản dị của
một nhà văn b́nh dân, văn ông Quỳnh có tính cách trang
nghiêm của một học giả. Tuy văn nghiệp
của mỗi người có tính cách riêng, nhưng hai ông
đều có công với việc thành lập quốc văn
vậy (28).
Thập niên 30 trong Nam có
một tờ tạp chí rất quan trọng là Phụ
Nữ Tân Văn, với tờ nầy các vấn đề
cải cách xă hội được đặt ra, cũng như
vấn đề Thơ Mới được cổ
động mạnh mẽ lần đầu tiên.
- Giai đoạn cận
đại và hiện đại: 1932 - 2000
Giai đoạn nầy không
thể nói bằng một hai trang giấy v́ đây là giai
đoạn sung măn nhứt của VHQN, chỉ xin tóm
lược vài điểm chánh:
Những năm tiền
chiến: 1932-1945: Thi ca nổi bật với những cách
mạng về lề luật thi ca cũng như tiết
điệu. Đặc điểm của thời nầy
tổng quan là lăng mạng, với những chuyện yêu
thương và đau khổ. Các thi sĩ phần nhiều
nỗi danh v́ biết nh́n thật sâu vào tâm hồn ḿnh
dể diễn tả những t́nh trạng tế vi ai cũng
cảm nhận nhưng không thể tự ḿnh diễn
tả.
Những năm kháng chiến
(1945-1954) Sàig̣n trở lại là cái nôi của văn học
với tràn ngập truyện ngắn và thi ca cổ
động cho việc lên đường chống thực
dân và đề cao công cuộc kháng chiến. Những nhà
văn nầy sống ở thành phố, phần nhiều
không trực tiếp nhận chỉ thị từ phía lănh
đạo công cuộc kháng chiến thời đó. Họ
viết bằng trí tưởng tượng, bằng cái tâm
bất b́nh của con người. Cùng thời gian nầy,
ở vùng kháng chiến những nhà văn chịu ảnh
hưởng của Cộng Sản viết theo chỉ
thị dù rằng họ có lợi thế được
nhiều người đọc hơn và có nhiều thực
tế để quan sát.
Những năm đất
nước lưỡng phân (1954-1975) Đất
nước bị chia hai kéo theo sự phân cách về suy
nghĩ của hai Miền Nam Bắc. Sàig̣n tự do trong suy
nghĩ nên người viết muốn viết ǵ th́ cứ
viết miễn là có một chút kỹ thuật và văn
chương. Kết quả là có nhiều tác phẩm nhảm
nhí xuất hiện. Những tác phẩm có giá trị văn
chương lại đem đến ảnh hưởng
tiêu cực trong việc đối đầu với sự
xâm lăng của quân đội Miền Bắc khi phân tích những
tai hại bi đát của chiến tranh, sự phi lư
của cuộc đời, cổ vơ cho cuộc sống
buông trôi. Hà Nội trái lại định hướng
tất cả mọi sinh lực của nhà văn trong
việc sáng tác yểm trợ cuộc chiến của
họ nên sản xuất ra những quyển sách
tưởng tượng về sự chiến đấu
thần thánh của nhân dân trong việc chống Miền Nam,
chống Mỹ, và bôi lọ đến tuyệt cùng chánh
quyền và nhân dân Miền Nam.
Những năm trong và ngoài
nước (1975-?) Đây là sự kéo dài của giai
đoạn lưỡng phân với những thay đổi
nho nhỏ ở cả hai phía. Bên ngoài t́nh yêu quê hương
được tô đậm, bên trong những đề tài
xây dựng được trát hồng. Sự thay
đổi nầy tuy vậy vẫn không xóa được
tính chất thù hằn trong văn chương ở hai vùng
trong và ngoài nước...
o O o
Cũng nên nhắc lại
rằng trong hai giai đoạn đầu của Văn Học
Quốc Ngữ th́ các hệ thống khác của văn
học Việt Nam như truyền khẩu, Hán, Nôm vẫn
hiện diện, mặc dầu mờ nhạt khói
sương hơn thời kỳ chưa có chữ quốc
ngữ. Ở những giai đoạn sau, các loại h́nh
văn học Hán, Nôm chết khô dần như những ḍng
suối cạn nguồn mùa nắng, chẳng c̣n âm
hưởng ǵ ngoài sự mua vui nho nhỏ của vài ba
người trong các văn đàn khép kín, hoài vọng về
một dĩ văng không thể nào có lại được.
Văn chương truyền khẩu cũng vậy ở
các giai đoạn sau của Văn Học Quốc Ngữ
không c̣n được coi trọng nữa v́ h́nh thức
văn tự đă được coi là ổn định,
chuyện in ấn đă dễ dàng, chỉ c̣n lại
như những h́nh thức biếm nhẽ, chống đối,
khinh mạn.. người ta kể nhau nghe để làm tṛ
cười trong vài ba người bạn, không ảnh
hưởng đến ai... Hát ḥ cũng mất dần theo
h́nh thái sinh hoạt mới của thời đại và
những ảnh hưởng bất lợi của cuộc
chiến vô lư triền miên, chỉ c̣n lại trong kư ức
và tâm tưởng của những người lớn
tuổi may mắn nghe được vài câu trong thời
kỳ tàn tạ của loại h́nh văn học
đặc biệt nầy.
Văn Học Quốc Ngữ
đă trưởng thành quá mau, trong ṿng một thế
kỷ mà từ không thành có. Từ có thành một bản
sắc riêng của cả dân tộc. Tiếc rằng ở
nửa thế kỷ sau, về mặt viết lách, quá
nhiều chất xám của dân tộc tiêu phí vô ích cho
những mục tiêu chánh trị vốn không có bao nhiêu giá
trị đối với đường dài của
lịch sử, đó là chưa kể những bài viết
đáng lẽ có đă không có được v́ người
viết không thể cầm bút hay bị bức tử.
Đáng lẽ sinh ra và lớn lên trong lúc chiến tranh bao
trùm đất nước nhà văn phải cho ra
đời được những tác phẩm dính dáng
đến chiến tranh mà đi vào ḷng người như
của Đỗ Phủ, Cao Bá Quát, Victor Hugo, Gogol, A. Tolstoy
.... đằng nầy ta chỉ có quá nhiều những
tiếng căi cọ chửi bới chắc chắn không vui
ḷng những thế hệ con cháu mai sau...
Nguyễn Văn Sâm (Port Arthur, TX, April 1998)
Ghi chú
(1) Một nghị định
năm 1896 công nhận chữ quốc ngữ mới và dùng
trong một số trường hợp trong thơ từ
công chứng, năm 1903 bắt buộc có bài thi Pháp văn
trong tất cả các kỳ thi của Triều đ́nh
Huế.
(2) Xem Hồ Ngọc Cẩn - Văn chương An Nam, Hồng Kong, Imp. de la Missions-Étrangères, 1933, trang 167-172
(3) Chẳng hạn một
trăm năm trước ông Trương Minh Kư có một
đề nghị nhỏ, có vẽ hợp lư và tiết
kiệm được th́ giờ trong việc viết in là
không đánh dấu sắc trên các chữ đă đọc
đúng âm mà không cần dấu, nghĩa là chữ của
các vần at, ăt, ât, et, êt, ot, ôt, ơt, uc, ưc, ut,
ưt.... chẳng hạn như hát, thác, cốt.. th́ chỉ
cần viết hat, thac, côt ...là đủ. Trương Minh
Kư đă thực hành trong các bài viết của ḿnh, nhưng
cho đến nay vấn đề cũng đâu vào đó,
không nhúc nhích ǵ.
(4) Giai đoạn nầy các
tuồng hát bội Nôm xuất hiện thật nhiều,
nhiều đến nỗi ta có thể gọi văn Nôm giai
đoạn nầy là giai đoạn của tuồng.
(5) Lời nói với bổn
đạo, trong Thông Loại Khóa Tŕnh,
(6) Đọc tác phẩm
của Phan Chu Trinh ta thấy nhiều bài thơ của ông
ở cả hai dạng quốc ngữ và nôm . Tuy nhiên
phần quốc ngữ th́ ít hơn phần nôm nhiều.
(7) Phạm Thế Ngũ,
VNVHS, GUTB, quyển 3, trang 78.
(8) Nhứt
nhựt.... Ước ao ngày một khỏi ưu
phiền, Trọn bữa thanh nhàn giă thể tiên. Trần
lụy vẫn rằng miền thế tục. Phong quang
đưọc gọi cảnh thiên nhiên; Non cao chí cả ai
là thú. Cơi tỉnh ḷng trung bậc tợ hiền; Cái khúc nghê
thường nghe khéo rộn, Lời ông Phương Sóc
đáng nên khen.
Thường Bả...Thường ǵn mối đạo
dốc tay dương, Bả-chả đâu hề trễ
tánh gương. Nhứt chí từng thơm danh bắc
quyết, Tâm t́nh trải rạng tiếng Đông
Dương. Chuyên ṿng nghĩa lư noi long mực, Hành sự
văn từ dăi dấu hương. Chánh ư bày hay, mong
đổi tục, Đạo hằng giữ trọn ít ai
thương.
(9) Về trường hợp
Tôn Thọ Tường, ta có nhiều lư do để tin
rằng ông viết bằng quốc ngữ. Tài liệu c̣n
lại ca tụng rằng ông học chữ quốc ngữ
rất mau sau khi đă nổi danh hay chữ trong hệ
thống Hán, Nôm. Bài truyền thị của ông khi làm
Đốc Phủ Sứ ở quận Vũng Liêm, c̣n in
lại trong tập san Thông Loại Khóa Tŕnh, tháng 6 1889, trang
12-13 chắc chắn nguyên bản phải là quốc ngữ
v́ những lư do chánh trị. Trích:
Ra lời truyền tỏ
với nhân dân, Làm người phải biết giả
chơn. Chớ khá nghe lời huyển hoặc. Xưa sáu
tỉnh súng đồng giáo sắt. Binh lương tiền
túc chứa chan. Ô le tàu hải rỡ ràng. Thành tỉnh pháo
đài nghiêm nhặt....
(10) Bút tích bài thơ nầy do
bà Sương Nguyệt Anh viết tặng thi sĩ Tô Ngọc
Đường khi bà lên chơi núi Bà Đen ở Tây Ninh vào
đầu thế kỷ 20. Tài liệu nầy lần
đầu tiên đăng trong Văn Hoá Nguyệt San
trước 1975, sau được trích lại trong Húnh
Minh, Tây Ninh xưa và Nay.
(11) Nên nhớ rằng đó là
năm đăng trên Thông Loại Khóa Tŕnh, năm sáng tác
chắc c̣n trước đó nhiều.
(11B) Để ư là ngựi
xưa phát âm hơi khác chúng ta ngày nay. Cho tới cuối
thế kỷ 19 họ nói khoăn khoái (thay v́ khoan khoái),
thốn thức (thay v́ thổn thức)…
(12) Bản in lần thứ
hai, Sàig̣n, Imp. Commerciale Rey, Curiol et Cie, 1896. Dịch giả
đề tên sách nguyên tác là Riche et Pauvre, nhưng không ghi tên
tác giả. Sẵn đây cũng xin đính chánh rằng Giáo
Sư Phạm Thế Ngũ trong tác phẩm thượng
dẫn trang 76 đă ghi lộn là của Trương
Vĩnh Kư. Thư Viện Quốc Gia Pháp, kư hiệu 8o. Ya.
33, có cả chữ kư của Trương Minh Kư.
(13) Thư Viện Quốc Gia
Pháp, kư hiệu B. 126, có cả chữ kư của tác giả,
kư tặng ông Abel Des Michels. In năm Canh Dần (Canh Dần
Tân San) phát hành do nhà Quảng Thạnh Nam (Quảng Thạnh
Nam phát tập) tàng bản do nhà Thiên Bửu Lâu ở vùng
Phật Trấn, Quảng Đông.
(14) Điều nầy th́ xin
thú thiệt là ghi lại theo trí nhớ trong một lần
nói chuyện với một nhà nghiên cứu lăo thành chuyên
viết về văn chương Miền Nam. Tới
giờ chúng tôi cũng chưa t́m được bản
quốc ngữ. TVQG Pháp trong Catalogue du Fonds Vietnamien không ghi
ǵ về tác phẩm nầy. Khi viết xong bài nầy th́
được mách là thư Viện trường Viễn
Đông Bác Cổ, Paris có, kư hiệu 8o 589, quyển nầy
in ở Sàig̣n năm 1889, nhưng chưa liên hệ
được để xem mặt mũi quyển sách song
tịch nầy ra làm sao!
(15) Ông A. Des Michels trong
quyển Contes Plaisants Annamites, Paris, Ernest Leroux, 1888, đă
dịch và cho in hai mươi truyện đầu trong
quyển Chuyện Đời Xưa của Trương
Vĩnh Kư ra chữ Nôm. Trong quyển sách tam ngữ Pháp-
Việt- Nôm nầy phần chữ Nôm không thôi cũng là 65
trang, là một tài liệu quư cho người bước
đầu học chữ Nôm. Mặt khác cũng cho ta
thấy phần nào ‘bản lai diện mục’ chữ nôm cuối
thế kỷ 19.
(16) Thường các bài văn
ngắn khuyết danh khi được Petrus Kư phiên âm ông
đề là dịch ra chữ quốc ngữ và chú
giải. Các tài liệu nầy ở Việt Nam khó t́m nên ít
người thấy, GS Phạm Thế Ngũ công nhận
rằng ḿnh chỉ biết được Chuyện Đời
Xưa, hai bài Trương Lưu Hầu phú và Ngư
Tiều Trường Điệu, một vài đoạn
trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi.. cho
nên rất nhiều trường hợp công tŕnh phiên âm và
chú giải của Trương Vĩnh Kư được
nhiều người coi lầm như là công tŕnh sáng tác
của ông. Ngay trong phần giới thiệu Gia Định
Phong Cảnh Vịnh Trương Vĩnh Kư viết: ‘Có
kẻ nói bài vịnh nầy là do ông Ngô Nhân Tịnh ngụ
ở xứ Trà Luộc làm ra mà chơi. Nhưng vậy
chẳng biết có thật hay không..’ vậy mà hầu
hết các sách đều xếp vào loại do ông sáng tác.
Về việc chú giải, nếu ngày nay ta phục công
việc mằn ṃ tốn nhiều công sức nhưng giúp
ích thật nhiều cho người không có cựu học và
thời giờ th́ ngay lúc đương thời
Trương Vĩnh Kư cũng không được sự
hổ trợ của bao nhiêu người. Ông than thở:
‘Bấy lâu nay ta hay in thơ phú ra mà có chú giải kĩ càng
có ư cho kẻ coi sách sẵn có trước mắt những
truyện tích trong kinh điển mà ra cho thông hiểu
khỏi t́m hỏi kiếm sách vở cho lâu lắc mất
công. Mà nghe lại coi có nhiều người không vụ
tất những lời chú giải làm chi, nên ta in ra thêm
trước đầu sách một bài rút cương
truyện lại cho biết đầu đuôi cớ tích
truyện mà thôi.’
(17) Quyển tự
điển đồ sộ nầy nhiều người
khen. Ông Nguyễn Văn Y làm một luận văn Cao
học Văn chương Việt Nam (MA, Saigon 1966) về
quyển nầy trong khi ông Phạm Thế Ngũ coi như
một công tŕnh không vần thiết. (VNVHGUTB, q3, trang 82).
(18) Hai tuồng nầy chúng tôi
chưa sưu tầm đuợc bản Nôm mà lại
gặp cũng hai tuồng nôm cùng đề tài nhưng
thoại khác. Ông bà ta xưa viết nhiều, chỉ
tội là chúng ta không bảo tồn được bao nhiêu.
(18B) Bài nầy viết năm
1998, cách nay, 2009, hơn10 năm, bây giờ người
viết đă có trong tay bản Nôm Nữ Tắc nầy
rồi, nhưng c̣n biết bao nhiêu bản phiên âm quốc
ngữ do Petrus làm mà nay chúng ta vẫn chưa t́m
được bản Nôm.
(19) Tôi xếp truyện
của Nguyễn Trọng Quản vào loại truyện
ngắn mà không xếp vào loại truyện dài v́ truyện
nầy quá ngắn và chủ đề quay về một
trọng điểm và không mô tả ngoài đề tài chung
như các truyện dài thường có.
(20) Trương Vĩnh Kư cho
đăng lại trong Thông Loại Khóa Tŕnh số 11 tháng Ba
năm 1889, có ghi: Nguyên của ông Thông Phán Tần ở
Quảng Nam chép cho.
(21) Thông Loại Khóa Tŕnh, tháng
4 1889, Trương Vĩnh Kư ghi lại cả năm sáng tác
1888 của tác giả Lê Đắc Nghi tự Lê Ngọc
Chất.
(22) Maison J. Viết, Sàig̣n, 1915.
(23) Ghi lại theo mẩu
quảng cáo của nhà J. Viết. Ngay cả Thư Viện
Quốc Gia Pháp ở Paris cũng không có cả những
quyển nầy.
(24) Thơ Sáu Nhỏ, par Lê Minh
Điều, Sàig̣n , 1914, trang 11-12. Ya. Pièce 417
(25) Húnh Văn Liêng chuyển
sang quốc ngữ (?), Sàig̣n, J. Viết 1916.
(26) Trích Bảo (như là lời nói đầu ngày nay) Thông
Loại Khóa Tŕnh, số ra mắt , không đề tháng,
năm 1888, trang 3.
(27) Chúng tôi không biết về
tiểu sử của ông nầy nhưng câu ‘t́nh thê nhi thêm
lại rịch ràng...’ khiến ngờ rằng Canavaggio có
vợ Việt Nam. Nhứt là ông ở Việt Nam quá lâu và
đă dịch được truyện Tam Quốc sang
quốc ngữ.
(28) Việt Nam Văn Học
Sử Yếu, trang 419