NHỮNG CON MÈO TRONG HÌNH VẼ
Lafcadio Hearn
Nguyễn Văn Sâm dịch
Nghệ thuật khi đi tới tuyệt đỉnh
thì ảnh hưởng của nó vô cùng, khó lường, khó
tưởng tưởng được. Câu chuyện cổ
tích Nhật Bản nầy được Lafcadio Hearn, nhà
văn Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan, sống cuối đời
ở Nhật, viết bằng một văn phong giản dị
nhưng đã có công giới thiệu cái bản sắc đặc
thù của văn hóa Nhật với Tây phương (NVS).
Lafcadio Hearn (1850-1904)
Lâu, lâu lắm rồi, trong một
ngôi làng bé nhỏ ở Nhật, có một đôi vợ chồng
nông dân nghèo khổ. Họ là người tốt nhưng vì
quá nhiều con nên không thể nuôi hết được.
Đứa lớn nhất khi vừa lên mười bốn
đã phải làm việc nặng nhọc giúp cha rồi. Hầu
hết mấy đứa con gái ngay từ khi mới biết
đi đã phải lo đỡ đần cho mẹ.
Nhưng mà đứa nhỏ nhất,
đẹt con, không thể thích hợp với công việc nặng
nề. Nó thông tuệ hơn các anh chị, nhưng lại yếu
ớt và quá nhỏ bé. Thiên hạ nói nó không thể lớn
được. Cha mẹ nó nghĩ rằng lo cho con về
sau thành thầy sãi tốt hơn là thành nông dân. Rồi họ
dẫn con đến ngôi chùa trong làng, khẩn khoản vị
sư trụ trì cho con vào chùa học tập như một
chú tiểu.
Vị sự già trụ trì nói
năng ngọt dịu nhưng hỏi chú nhỏ những
câu hỏi khó. Các câu trả lời đều rất mực
thông minh nên chú được chấp nhận ở chùa, làm
tiểu, tu tập dưới sự hướng dẫn của
vị sư già.
Chú thu thập rất nhanh những
gì được dạy dỗ. Vâng hầu hết mọi
lời. Nhưng có một điều chú lỗi lầm:
thích vẽ mèo trong giờ tu tập. Thích đến nỗi
vẽ ngay cả những nơi không thể nào được
phép. Mỗi khi ở nơi thanh vắng một mình, chú vẽ
mèo. Vẽ trên lề kinh, trên bia đá, trên vách phòng, trên cột
chùa. Nhiều lần vị sư già giải thích cho chú biết
đó là điều sai trái, nhưng chú vẫn chứng nào tật
nấy. Vẽ bởi vì không thể không. Chú có cái tài
năng của người nghệ sĩ. Và vì vậy không
thích hợp với cuộc sống của một chú tiểu
trong chùa, làm tiểu là phải học kinh học kệ.
Một ngày kia sau khi chú vẽ cái
hình mèo đẹp đẽ trên giấy phong tường
thì vị sư già nghiêm trang nói với chú: "Này con, ta
khuyên con nên hãy rời khỏi chùa ngay. Con không thể tu tập
để trở thành một vị sư được,
nhưng con có thể trở thành một nghệ sĩ kỳ
tài. Bây giờ ta cho con lời khuyên cuối cùng, hãy nhớ
không được quên: Ban đêm hãy tránh chỗ trống rộng;
chọn chỗ nhỏ hẹp!"
Chú không thể hiểu ý thầy
mình muốn nói gì khi bảo "Ban đêm hãy tránh chỗ trống
rộng; chọn chỗ nhỏ hẹp!". Trong khi cột
tay nải để ra đi, chú suy nghĩ lại mãi
nhưng vẫn không thể nào thấu lý câu nói. Chú sợ
không dám hỏi gì thêm với thầy ngoài việc nói mấy
lời giã từ.
Lòng buồn rười rượi
chú rời chùa, tự hỏi không biết mình phải làm gì.
Chú biết rằng nếu về nhà thì sẽ bị cha
đánh vì không nghe lời thầy. Ngay lúc đó chú nhớ lại
là làng bên cạnh, cách đấy mười hai dặm có một
ngôi chùa rất to lớn nguy nga. Chú từng nghe rằng ở
đây có rất nhiều sư sãi, chú quyết định
đến đấy xin học tập làm sãi.
Lúc bấy giờ thì ngôi chùa đó
đã đóng cửa rồi nhưng chú tiểu nhỏ không
biết điều này. Chuyện là ở đây có một
con quái vật làm tinh làm ma khiến các vị sư trong chùa
kinh sợ phải bỏ đi. Con quái vật từ ấy
ngụ chiếm ngôi chùa. Về sau có vài ba dũng sĩ
đến chùa ban đêm định trừ con quái vật,
nhưng sau đó không ai thấy họ sống sót trở về.
Chú tiểu không được nghe các chuyện nầy cho
nên chú đi thẳng vào làng, hy vọng được các vị
sư trong chùa tiếp đón tử tế.
Khi chú vào tới làng thì trời
đã tối, thiên hạ ngủ hết rồi. Chú thấy
ở phía cuối con đường chính, trên ngọn đồi,
ngôi chùa với ánh đèn thấp thoáng bên trong. Người
ta nói rằng con quái vật hằng đêm đốt
đèn để dụ khách lỡ đường đến
xin trú ngụ. Chú tiểu đi thẳng vào tận chùa, gõ cổng.
Bên trong không có tiếng động. Chú gõ đi gõ lại nhiều
lần nhưng vẫn không có ai ra mở cổng. Sau cùng chú
nhẹ đẩy cánh cửa cổng và rất vui mừng
khi thấy cửa không khóa. Rồi chú đi thẳng vào.
Đèn đang cháy nhưng không bóng dáng một vị sư
nào.
Chú nghĩ rằng không lâu chắc
chắn sẽ có một vị sư nào đó đi ra. Chú
ngồi xuống đợi. Rồi chú nhận thấy rằng
tất cả mọi vật trong chùa đều trắng
xám vì bị phủ một lớp bụi dầy. Nhện
giăng mắc khắp mọi nơi. Chú nghĩ rằng
sư sãi trong chùa sẽ rất thích có một chú tiểu
trông coi chuyện lau chùi sạch sẽ mọi thứ. Chú ngạc
nhiên không hiểu tại sao mà họ lại để mọi
vật đóng bụi như vậy. Tuy nhiên điều làm
cho chú thích thú lại là có vài tấm cửa giấy màu trắng,
rất thích hợp để vẽ mèo. Dầu rất mệt
mỏi, chú cũng đi tìm bút, chú tìm thấy bút và cả mực
nữa nên bắt đầu miên man vẽ mèo. Chú vẽ thật
nhiều mèo trên giấy dán cửa; rồi thì chú cảm thấy
buồn ngủ vô cùng, vừa sắp sửa nằm xuống
ngủ bên cạnh một cánh cửa thì thình lình chú nhớ
lại lời dặn "Ban đêm hãy tránh chỗ trống
rộng; chọn chỗ nhỏ hẹp!".
Ngôi chùa quá rộng, quá lớn, mà
chú thì có mỗi một thân một mình; và trong khi nghĩ
đến những lời này - mặc dầu không hiểu
thấu đáo - chú bắt đầu lo sợ. Chú giải
quyết bằng cách tìm một chỗ nhỏ để ngủ
trong đó. Chú tìm thấy một cái tủ có cửa kéo. Chú
lách mình vào trong đó, đóng cửa tủ lại. Chú nằm
xuống, rồi chìm mau trong giấc điệp.
Đêm khuya, chú giật mình thức
dậy vì tiếng động vô cùng khủng khiếp - tiếng
của đánh nhau chen lẫn với tiếng của thét
gào. Tiếng động đáng sợ đến nỗi
chú không dám nhìn qua khe hở của tủ để xem chuyện
gì xảy ra, chú nằm yên lặng, nín thở vì sợ hãi.
Ánh đèn trong chùa đã tắt,
nhưng tiếng động quái dị vẫn tiếp diễn,
và rồi thì cả ngôi chùa rung chuyển dữ dội. Sau
đó thật lâu sự yên tĩnh mới trở lại,
nhưng chú vẫn sợ không dám nhúc nhích. Chú nằm im lặng
trong tủ cho đến khi ánh mặt trời len theo cửa
tủ rọi vào trong.
Rồi thì chú cẩn thận ra khỏi
chỗ trú ẩn, nhìn khắp chung quanh. Điều chú thấy
đầu tiên là tất cả nền chùa đều đẳm
máu. Nằm giữa chùa là một con chuột quái tinh - to còn
hơn cả con bò!
Nhưng ai đã giết con chuột
nầy? Không thấy ai hết, cũng không thấy con vật
nào hết. Bất chợt chú thấy miệng những con
mèo mình vẽ hồi tối hôm trước đều
ướt đẫm máu đỏ. Chú biết ngay là mèo
mình vẽ đã trừ khử con chuột tinh kia. Và
cũng ngay lúc đó, lần đầu tiên chú hiểu tại
sao thầy lại khuyên "Ban đêm hãy tránh chỗ trống
rộng; chọn chỗ nhỏ hẹp!"
Từ đấy chú tiểu trở
thành một người nghệ sĩ nổi danh. Vài bức
tranh mèo do chú vẽ ngày nay vẫn còn được giới
thiệu cho du khách thưởng thức khi họ đến
Nhật Bản.
(Nguyễn Văn Sâm dịch
từ bản tiếng Mỹ)