Quê Hương
Mình
Nguyễn Văn
Sâm
Họ
đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước
độc
để
lót đường cho con cháu đi tới..
(Bình Nguyên
Lộc)
Ngồi
chễm chệ trên cái mui ghe cá dềnh dàng nhứt, nổi
bật lên trong đám ghe đậu san sát ngoài sau lưng dãy
vựa cá, thằng Đực khoái trá, đánh đòng
đưa hai chưn, mặt vát hất ngó trời ngó
đất. Bên kia sông lèo tèo mấy cái xuồng nhỏ
của những gia đình ở dựa mé, sắm sẵn
để đi chợ mà khỏi phải cuốc bộ
qua cầu, đậu ơ hờ, rập rình theo sóng. Ống
khói hãng thuốc Bastoz bữa nay theo lệ thường hàng
tuần phun khói từng bựng, đen kịt. Thằng
Đực đánh vần hàng chữ đập vô mắt
nó mỗi lần ngó qua bên kia sông: Manufacture des tabacs
Indochinoise. Maison fondée en 1887. Chữ đắp nổi
được trình bày trong một cái vòng tròn thiệt
bự có chữ ký tên J. Bastoz ở chính giữa. Mọi
bữa giờ này thầy thợ trong hãng túa ra về
đặt nghẹt một khúc đường, nón lá
tủa ra mọi ngả, tràn vô mấy đường
hẻm gần đó. Mấy thầy cai kha khá hơn, đi
làm bằng xe máy, vác xe lên cầu, bước từng
bực thang để khỏi đạp một
đỗi đường dốc dài. Lần nào thằng
Đực ngó cảnh người cõng xe cũng bắt
tức cười. Bữa nay Chủ Nhựt, khung cảnh
mất đi sự vui nhộn thường ngày. Buồn
thiu. Phía dốc ngã đi về cầu Rạch Bần,
một chiếc xe-cá chở đầy nhóc ván, con ngựa
kéo hổn ha hổn hển nhưng cũng không nhúc nhích
được nhiều. Trên cầu, bộ hành qua lại
thưa thớt, vội vã. Mấy cây trụ đèn trên lan
can cầu vượt lên trên nền trời trong, sừng
sững như cột chống trời. Ban trưa cảnh
tượng chìm trong không khí im lìm, hoạt cảnh xê
dịch thật chậm chạp, chỉ có cảnh tụi
bạn đương lặn hụp, rượt bắt
ngoài giữa sông là coi mòi hấp dẫn. Thằng
Đực nghĩ bụng: Chưa cần. Ngồi chơi
một chút đã rồi tính sau.
Gió trưa thổi như muốn lột
bỏ lớp hơi nóng hừng hực dán lên mình mẩy nó
nãy giờ. Mát rượi, sướng rơn, nó lim dim
mắt, gõ nhịp đùng đùng vô mui ghe, tán thưởng
nhịp song lang thiệt ngọt phát ra từ cái máy hát trong
khoan đương mê hoặc thiên hạ bằng sáu câu
vọng cổ 'Đắc Kỷ thọ hình' mùi rệu.
Nhớ trực lại ghe cá họ ghét cay ghét đắng
chuyện dộng rầm rầm trên ghe, sợ cá giựt
mình quẩy mạnh sẽ bị hao hớt, nó lật đật
sửa bộ lại tề chỉnh rồi lấm la
lấm lét liếc xéo về phía mũi, nhóng chừng coi có
ai lên tiếng lên tăm gì không. Được một đỗi
hơi lâu, thấy bộ chừng đâu vô đó, nó
vững bụng vảnh tai thưởng thức trạng
thái vừa sợ sợ vừa khoái khoái của một
đứa nhỏ làm điều cấm kỵ mà không
bị quở trách rầy la. Một cơn gió thổi
phất tạt hơi cá sình đằng sau tới. Nó day
lại. Cá phơi nhiều vô kể, con nào con nấy
bụng trắng hếu, ngay đơ, nằm chất
chồng xếp lớp lên nhau, kín mít gần hết mui. Cha!
cá ghe nầy chết bộn ha, hôm qua đâu có dữ tợn
như vầy nè. Ham lời chở cho cố, đầy
nhóc hầm, cá ngộp hao hớt bộn bàng, vậy mà
vẫn cứ chùm nhum trong đó nghe đờn ca
xướng hát như thường. Nhà giàu khoái thiệt,
của lượm mót thôi cũng thấy mê, bằng cả
gia tài người ta chớ ít ỏi gì sao? Nhưng trí thằng
Đực không định được lâu để lý
luận so đo vòng vo. Nó bốc lên một con, lật
ngược lật xuôi, ngắm nghía xăm xoi, như từ
trước tới giờ chưa từng thấy con cá nào
lạ lùng như vậy. Cá chắc đâu đã
được liệng lên mui từ hai ba bữa
trước, mình đã hơi khô khô, vảy lưng đã
cong queo, vảy khúc đuôi cuốn kèn cứng ngắc. Nó
ấn ấn lên mình con cá. Thịt lưng hơi xốp
xốp, còn bệu, nhưng chắc chắn sẽ thành khô
khi phơi đủ nắng. Coi bậy bạ vậy
chớ tiền là tiền. Nhưng mà bây giờ thì khó
chịu quá, thúi còn hơn cứt. Thum thủm cái mùi ông
Trịn mỗi lần ông ta mở cái chén úp ở chỗ
mổ làm độc dưới be sườn non --
để gợi lòng thương thiên hạ. Thằng
Đực nhăn mặt khịt khịt mấy cái như
để tống lôi tống khứ mùi hôi thúi lẩn
quất trong lỗ mũi, cái mùi cá có thiệt trước
mặt và cái mùi ông Trịn liên tưởng. Cũng không
ăn thua gì ráo trọi, còn nghe khổ lỗ mũi lắm,
như thịt thúi, tanh ói thiếu điều muốn
mửa. phải rồi, mùi
thằng chõng chết trôi, giống hịt mùi tháng
trước khi một thằng chỏng tấp vô sợi
dây neo của chiếc ghe trước mặt. Nó xình
chương, thịt nở ra thành mập ú, mình mẩy
vừa tái mét vừa bầm bầm, hai tay quỳnh ra ngoài
sau, mặt ngước cao lên trời đưa cái cổ
dài thoàng, mấy cục xương cổ nổi cộm
lên thấy mà phát ớn. Chén cơm bữa đó bỏ
mứa luôn, nuốt đâu có vô! Khỉa luôn hai ba bữa sau
cũng vậy, cứ và vài ba miếng là thấy nhợn,
buông đủa ngó mông.
Thằng Đực nín thở nhốm
từ từ về phía sau lái. Nhớ tới ông Trịn
chỉ hơi ghê ghê, nhưng nhớ tới thằng
chỏng chết trôi thiệt tình nó thấy rỡn tóc gáy,
như ai lấy búa thầu quơ quơ trên đầu nên
ý muốn lội chơi với chúng bạn hay đợi
tàu kéo chạy ngang nhảy ùm xuống đu trên sợi dây
dòng tự nhiên tiêu tán. Ông già bà cả thường nói hoài,
tắm sông mà nghĩ tới hay thấy trong trí hiện ra
hình ảnh thằng chỏng chết trôi, chém chết
cũng gặp xui xẻo, hỏng bị ma da kéo cẳng
nhận cho chết chìm làm ma thế chỗ cho nó đi
đầu thai cũng bị vọp bẻ uống
nước đầy nhóc bụng. Chắc như ba bó
một giạ, hỏng trật được. Chuyện
bà Thủy, bà Hỏa mà, đâu có giỡn đâu. Mà cho là
người lớn đặt chuyện hù dọa con nít
đi nữa cũng hỏng nên thử, nguy quá. Thôi nhịn thèm một bữa
hỏng chết ai. Tắm mà trong bụng đánh-lô-tô thì có
sướng ích gì đâu. Nó phát thinh nói thành tiếng, nói
một mình như ông ứng bà hành mấy chữ bà nội
nó thường rao ở cửa miệng. 'Cẩn tắc vô
ưu, cẩn tắc vô ưu.'
Để lòng ham hố của mình thiệt
tiêu tan, thằng Đực ngồi thẳng lưng lên ngó
ngang ngó dọc, mấy ngón tay nhịp nhịp lên
đầu gối, cố gắng tập trung ý nghĩ vô
chuyện khác.
Trên không trời trong vắt, chói chang. Ánh
nắng giữa sông phản chiếu long lanh. Từng
hơi thở nhẹ của không gian làm nhăn mặt
tấm kiếng khổng lồ dài ngoằn như con
rắn thủy tinh vảy lóng lánh bạc đương
uốn mình tới xa mút mắt.
Ngóng ba đồng bảy đổi, chán
chê, nó sửa bộ lại, day mặt hóng mỏ lên bờ.
Cảnh chợ trưa buồn hiu. Chán phèo. Thưa thớt.
Tan loãng. Bạn hàng chạy nhiều người
đương sửa soạn ra về. Cặp mắt
thằng Đực ngừng lại trên người ăn
mày cụt hết hai cẳng, mặt buồn xo, ngồi
trên tấm ván thùng sữa có gắn bánh xe lăn
đương khan cổ van xin khách qua đường
bằng một thứ văn chương bình dân có vần
có điệu, có kinh có kệ, nghe rầu thúi ruột.
'Lạy ông đi qua lạy bà đi lại,
thân con đau ốm tật nguyền. Xin ông bà làm ơn làm
phước cho xin đồng xu cắc bạc, con mua
cơm ăn, tội nghiệp.'
Nó quay đầu thêm một chút nữa. Ông
ăn mày gặp mỗi ngày có gì lạ nữa đâu. Dòm
càng lâu càng thấy sợ, thấy buồn chứ đâu
hứng thú gì? Bài bản xin xỏ nghe mấy lần
đầu còn hơi lạ lạ, vui vui, nhưng nhàm quá
rồi, thuộc nằm lòng rồi. Chán chê, thằng
Đực rảo mắt lục lọi khắp chỗ
kiếm chuyện hào hứng hơn. Nó khoái chí khi bắt gặp
bộ mặt của thầy phú-lít mũi trâu Năm Mành,
điếu thuốc trên môi, đương uể oải
đứng dựa cột đèn, tréo ngoãi chưn,
đưa mắt ngó bao quát quang cảnh chợ.
Điếu thuốc thơm 'nút chuồn' phong lưu
của thầy mỗi ngày một gói cả chợ này ai mà
hổng biết? Người sành điệu hút thuốc
Bastoz / Khách phong lưu hút thuốc nút chuồn (Golden club).
Câu thơ quảng cáo mà mấy thằng đánh giày tập
tành hút sách thường nghêu ngao hát khi buồn hay
đọc lên thiệt lớn để châm chọc
thầy Năm - nhảy vô trí nó. Bắt tức cười
ghê. Ai đời mũi gì mà như mũi lân, vậy mà còn
phì phà phì phèo để khói thuốc bay vô mắt rồi
nhăn nhăn hỉn hỉn, trái chanh đỏ bự,
gần bằng nắm tay, sần sùi, đo đỏ trên
mặt chạy lên chạy xuống, thấy, ai mà nín
cười được? Thằng Đực
cười trong bụng, để trả thù mấy
bữa trước thằng chả đã rượt nó
chạy thục mạng, chạy thiếu điều
tuột quần khi nó cùng với tụi bạn báo
động 'phú lít mũi trâu tới' cho bạn hàng
chạy, chạy vuột khỏi tay thầy. Nó còn nhớ
rõ, bữa đó mặt thầy Năm đỏ gay như
ông già say rượu, thấy mà phát sợ.
Buổi trưa nóng nực thấm mệt,
mắt thầy Năm coi tức cười thiệt,
nhưng có bộ hiền lành hơn buổi sáng lúc chợ
đông thầy còn phải thị uy để đuổi
mấy người bạn hàng tràn ra lấn chiếm
lề đường. Nó ngó theo ánh mắt của thầy,
ngưng lại ở chỗ một đứa con gái trang
lứa nó, đương xắp xắp xếp xếp
mấy nhúm ớt tỏi, năm ba cọng hành lá, vài ba trái
chanh trên cái tràn nhỏ đậy gá ngỡi vào cái rổ tre
cạp vành. Con nhỏ mở tròn quây cái miệng, rao lên vài
tiếng rời rạc mời mọc hiệp chót
trước khi trút hết xuống rổ ra về hay bán
đổ bán tháo vớt vát chút nào hay chút nấy bù gỡ
bữa chợ ế. Tiếng
rao khàn khàn, rời rạc như than vãn mệt nhọc,
buồn như tiếng mèo rượn đực lúc
nửa đêm. Nhão nhẹt, lạc lõng, gợi nhớ
điệu đờn đám ma đêm tối trời
mưa.
Không thấy hứng thú, thêm vô trời
cũng đã gần quá ngọ, thằng Đực
đứng dậy nhóng thẳng vô phía đường lên
bờ. Thinh không nó lật đật bò lom khom tới sau
lái, a-thần-phù nhảy cái rột xuống sàn ghe, phóng mau
như vượn chuyền nhánh, chuồn thẳng về
ghe mình. Nó chun tọt vô mui từ phía sau lái, kéo cái thùng
sữa đựng quần áo dưới gầm bàn ra,
xốc xổ kiếm cái quần xà lỏn đen, thay
vội thay vàng rồi quơ đại một cái áo
trồng vô bất kể ngược ngạo. Đâu đó
xong xuôi, thấy coi bộ qua mặt bà nội nó
được, nó ngồi chò hỏ trong khoang dựa cái
cửa lách, ngó mông ra ngoài như nãy giờ nó hiền từ
lắm, ngồi ở nhà học bài. May quá, em nó không hay
biết trời đất gì hết, cứ mải mê
chơi đánh đũa phía đằng đầu mũi.
Trên bờ, dì Tư đương tránh
mấy quày dừa ngổn ngang, cố lựa chỗ
trống để đi xuống ghe. Mấy người
chủ vựa trái cây ngồi trong mát, ngó ra, làm thinh không nói
gì. Dì Tư lầm bầm về trời nắng, về
sự lấn chiếm của chủ vựa trong khi
vẫn quày quả bước. Tấm bửng bắt
từ bờ sông xuống cái ghe lu cao lênh khênh ngại ngùng
bước. Dì ngừng lại, chuyển giỏ đồ
qua tay trái, lật cái khăn đội đầu xuống
vai, nhén nhẹ hai ống quần lên, từ từ
bước từng bước. Tấm đòn dài, oằn
xuống rung rinh. Dì ngó xuống sông, chỗ này gần
bờ, vỏ dừa, vỏ mía, rau cải dập thúi thiên
hạ đổ dồn ngày này qua ngày khác chất chồng
thành ụ, thành đống cao gần bằng bờ,
nước kéo đi không kịp nên thiệt khô, thiệt
cạn. Trí dì Tư nghĩ thiệt mau về chuyện ông
chủ vựa ngày nào đó sẽ kêu thợ lợp một
cái mái gie rồi vừng vách, đóng cừ, lót sàn, mở
rộng vựa một cách ngon ơ. Con đường
băng qua dãy vựa mấy năm trước lúc mới
đặt chưn lên đất Sàigòn này, rộng thinh thang
vừa đi vừa múa cũng còn dư dật, bây giờ
thì chật còn hơn nêm cối, đi phải tránh phải
né, bắt mệt! Thiên hạ làm ăn mau khá thiệt,
gầy dựng từ từ mà phát lên lúc nào không hay. Nhà mình
cựa quậy ngày nào đủ đút vô lỗ miệng
ngày đó. Chốn thành thị yên thân thì yên đó nhưng mà
không thấy hứng thú chút nào. Tạm bợ thì
được, chứ tính kế lâu dài coi bộ khó
khăn. Làm đầu tắt mặt tối cốt khỉ
cũng quờn cốt khỉ. Nghèo cũng hườn
nghèo, không biết chừng nào mới dư dả chút
đỉnh để dễ thở hơn. Ở đây
mười năm rồi, chán thấy mồ, không thấy
một ngày vui. Tình đời lạt nhách. Người quen
bèo mây tương hội, lịch sự đãi bôi, ù ơ
ví dầu, miệng lưỡi nhiều chơn tình ít. Trông
mong cho giặc giã dứt, trở về quê nhà săn sóc
miếng ruộng, vườn mía. Khỏe hơn, khỏi
lo chạy ăn cầm canh. Khỏi chán ngán lòng
người lạt lẽo.
Con Gái đứng đằng mũi ghe tay
vịn cây sào, chưn nhón tới ngóng bóng dáng bà nội.
Thoáng thấy dạng dì Tư ló đầu lên từ sau cái
ghe lu, nó lớn họng réo om xòm bát nhã, giọng con gái trong
veo, dễ thương cách gì!
'Nội ơi nội! Nội dìa trễ quá,
con đói bụng muốn xỉu luôn.'
Thằng Đực đã lấp ló sau
lưng em, nói giọng đàn anh, luôn dịp để
khỏa lấp chuyện trời ơi đất hỡi
mình làm nãy giờ.
'Gái, mầy đứng xích vô. Coi chừng
té chết trôi đó. Bộ mầy muốn làm thằng
chỏng hả?' Nó vừa nói vừa quỳnh hai tay ra phía sau ngửng
đầu lên, con mắt trợn dộc, miệng mở
tàng hoạt làm bộ tịch thằng chỏng để
dọa.
Con nhỏ bị hù sợ quýnh, lật
đật bước thụt vô khoang, mắt lấm la
lấm lét nhưng cũng còn ngoái cổ về phía bà
nội ở ngoài xa cách hai ba chiếc ghe. Dì Tư sau khi
bước nhờ nhè nhẹ trên mấy cái ghe thiên hạ, thở
hắt ra khi bỏ chưn xuống sàn ghe mình. Thấy
cặp mắt nheo nheo vì chói nắng của con Gái, dì nóng
ruột quở thương.
'Bây dang cái đầu trần ra nắng
chan-chan, nói hoài không được, cứng đầu
cứng cổ có bữa nứt đít đó.' Dì rờ
đầu nó, chắc lưỡi nói giọng ấm hơn.
'Đầu nóng hổi, nó biết thì bây chịu nghen,
đòn bọng cũng đừng kêu réo tao. Tao xin không
được đâu. Như bây biết đó, nó nóng
như lửa, còn hơn là Trương Phi nữa. Lần
nào đánh con cũng đánh như đánh giặc, đâu
có bao giờ biết nới tay!'
Nghe rầy, con Gái mặt xụi lơ
như bánh bao chiều. Thằng Đực tỉnh queo,
chế dầu vô lửa bằng một câu em nó nghe không
lọt lổ tai chút nào hết.
'Thuốc cảm 'con cọp cỡi
ngựa' uống chua lè chua lét, mà còn dính ở cần cổ
sặc muốn nghẹt thở luôn. Cho mầy uống
một ngày ba gói cho mầy hết dang nắng. Nó làm bộ
quay mặt chỗ khác nói lẽ theo điệu đã
đạp cứt người lớn. 'Lớn rồi, nói
hoài mỏi miệng quá, như nước đổ lá môn.'
Con Gái bực mình vênh mỏ bêu xấu
địch thủ.
'Tao có bịnh, tao biệt cửa cho mầy
ăn ké. Lần nào cũng xin, húp hùm hụp như
đồ chết đói bảy đời vương.
Lại còn ước được bịnh để có
cháo thịt bằm ăn mỗi ngày. Hứ! Thứ đồ
anh dụ ăn của em. Hỏng biết xấu.'
Dì Tư không bằng bụng về lời
nói hỗn hào đó, liếc mắt lườm cháu gái.
Thằng Đực mắc cỡ sượng trân. Con
nhỏ chu chu vảnh vảnh cái mỏ lông ben thấy phát
giận cành hông, ước sức muốn xán một
bộp tay cho thấy ông bà ông vãi. Nhưng nó kịp nghĩ
lại. Chắc con Gái sùng trong bụng lắm mới
đổ quạu lớn tiếng mầy tao nầy
nọ. Tốt hơn hết nhịn nhục để
khỏi đổ bể chuyện tắm sông. Nó nuốt
giận làm lơ, đánh trống lãng bằng cách chào
hỏi lăng xăng lích xích rồi nói với dì Tư
một câu mua lòng được ớn.
'Nội coi kìa, con Gái bữa nay coi
mướt ghê, trổ mã rồi. Có vẻ con gái rồi.
Nội thấy nó đẹp hơn mọi bữa không?'
Dì Tư cười xòa. Thằng này nịnh
cũng hay. Con nhỏ có khác gì mọi ngày đâu? Tuy vậy
dì cũng liếc qua cháu gái với một chút xíu hãnh
diện trong lòng. Con Gái mắc cỡ háy anh nó một cái dài
sọc rồi tủm tỉm cười.
Dì Tư như một cách giảng hòa,
đưa cái giỏ đi chợ cho thằng Đực,
đưa mấy gói vụn vặt cho con Gái. Ba
người lần lượt bước vô mui. Con Gái
đã quên hết giận hờn, chót cha chót chét với anh
nó trong khi nội nó lo bày biện đồ ăn ra một
cái bàn nhỏ kê sát vách mui, sửa soạn bữa cơm
trưa.
'Con Gái lãnh phần vo gạo nấu cơm,
một lon rưởi gạo thôi,' Dì, giọng thiệt vui,
sai phái giống như chủ tướng truyền
lịnh. 'Nhớ đậy khạp kín, vo bằng
nước đổi cho sạch rồi đổ vô
bốn lon nước. Làm vén khéo nhe con, bung thùa đổ
tháo tội trời lắm đó.' Dì quay lại thằng
Đực, tiếp. 'Thằng Đực lãnh phần rửa
rau, rửa rau bằng nước sông, nước chót
mới xài nước ngọt. Coi chừng đó, hụt
chưn thì bà Thủy kêu đó, nội già rồi không
nhảy xuống vớt được đâu.'
Con Gái làm theo lời dặn. Nó lấy
nồi, lui cui dở khạp gạo quơ tay kiếm cái
lon sữa bò, đụng nhằm trái mảng cầu xiêm và
hai trái vú sữa nội nó dú trong đó, nó rờ rờ bóp
bóp nhưng thấy còn sống nên không nói gì. Thằng
Đực cũng làm theo lời nội dặn nhưng nó
cười hì hì nho nhỏ. Bà nội có tuổi nên lẩm
cẩm, sợ bóng sợ gió mất công vô ích, chẳng khác
nào lo bò trắng răng. Mình còn dám leo lên chót vót cột
đèn trên cầu nhảy xuống, huống hồ...
Trọng cải rồi chứ bộ nhỏ nhít gì nữa
sao! Có chuyện gì thì chỉ cần sải hai sải là
nắm được be liền. Dể ợt! Nghĩ
vậy, nhưng nó cũng dạ dạ cho qua chuyện. Nói
qua nói lại cù cưa cù nhầy mất công mà có khi còn lòi
chành mấy cái tội dàng trời của mình không biết
chừng, hổng tắm sông thì mỗi chiều thứ
năm bỏ đi ba đồng bảy đỗi chứ
không ở nhà học bài. Bả nổi giận mét cha thì bà
hú.
Nó ngó lên cái chổi lông gà ba nó giắt trên
mui, rồi xách gói rau ra ngoài sau lái chổng mông xuống múc
nước rửa rửa lặt lặt, chăm chăm
chú chú như một đứa con gái chánh hiệu.
***
Đương xé bỏ mấy chỗ rau
úng, thinh không thằng Đực réo lên thiệt lớn,
giọng vui thiệt là vui.
'Nội nè!'
Dì Tư ngước lên ngó cháu. Cái thằng!
Tánh như con gái, réo nội ơi nội hỡi tối ngày
như mình mắc nợ ba bốn đời chưa
trả!
'Nội nè, tại sao nhà mình không ở trên
đất liền mà ở dưới sông? Mấy
đứa bạn nghe mình ở ghe, cười quá mạng.
Người ta xài ghe để chở đồ đi bán
chứ ai ở dưới ghe năm nầy qua năm khác
bao giờ.' Nó ú a ú ớ ngó nội nó một hồi mới
rào đón sau. 'Nói nội đừng giận, tụi nó nói
nhà mình dị hợm, hổng giống ai. Con hổng
biết nói làm sao nữa!'
Dì Tư ngừng tay đánh vảy con cá, ngó
cháu một đỗi hèn lâu mới nói thiệt chậm rãi.
Giọng không một chút giận hờn nào hết.
'Có nhiều điều mà con nít không
biết được đâu con. Người ta nói con nít
con nôi là như vậy đó. Chỉ lo ăn, ngủ thôi,
chớ biết cái khỉ gì đâu. Xứ mình sông rạch
chằng chịt, xe cộ ít ỏi, đường sá
lỗ hang, dùng ghe đi đâu cũng tiện. Vài
người, một gia đình, hoặc là làm ăn không khá,
hoặc là thời thế đẩy đưa, chỗ làng
nước khó ở, dắt díu nhau lên ghe, chất theo
đủ tam tứ thứ thập vật, từ cái áo
rách, cái chén bể, tới cái ông lò, chiếc chiếu,
nồi niêu chảo đụn, nương theo con
nước, theo lạch theo ngòi, ngừng lại ở
một voi một vịnh, một xẻo nào đó, lên
bờ coi cuộc đất hơi tốt tốt có
thể trồng trọt được thì chặt cây,
chầm lá, dựng chòi, cất nhà. Ngoảnh đi
ngoảnh lại không bao lâu khoảnh đất
trước đây dầu cho hoang vắng cách mấy
cũng thành chỗ có người của mình. Ban
đầu thì thưa thớt, vài ba gia đình, leo-heo
mấy cái nhà, độ chừng vài ba năm thì xum-xuê,
rộn-rịp, có làng có xã đàng hoàng. Bây biết hông,
xứ mình rộng lớn minh mông, đi già đời
cũng hổng hết đất mà đâu đâu cũng
thấy người là nhờ ghe đó. Đừng có
phụ rãy nó. Ghe là thứ chưn có bùa có phép để
đi trên nước đó con.' Dì Tư ngừng nói,
bốc một miếng trầu đã têm sẵn để
dành trong cái hộp thiếc thuốc con mèo, bỏ vô
miệng nhai bỏm bẻm rồi tiếp tục. 'Còn
chuyện tụi bạn bây nói nầy nói nọ hơi
sức nào bây để ý. Trối kệ chúng, coi như
không có. Thói thường người ta ở không thì ưa
bươi móc chuyện thiên hạ. Hễ giống họ
hay thua họ thì không sao, hễ khác một chút hay hơn
họ thì... ối thôi đủ điều. Nhưng mà
mỗi người có một hoàn cảnh. Nếu hoàn
cảnh ai cũng giống ai thì đời đâu còn người
nghèo người giàu.'
Thằng Đực không bằng bụng bà
nó xử chìm xuồng về chuyện châm chọc của
chúng bạn nhưng nó khoái thiếu điều muốn
nhảy dựng lên vì câu ví von của bà. Phải rồi,
trong truyện Phong Thần, truyện Tây Du có thiếu gì ông
tiên có phép thần thông, ghe cũng là một thứ thần
thông chứ bộ! Có tài độn thủy cũng chỉ
đi được một mình mình. Có ghe chở
được nhiều người mà còn đem theo
được đồ đạc vật dụng. Nó ngó
dì Tư rồi tủm tỉm cười tán đồng.
Dì được dịp nói rộng hơn
ý mình.
'Bây nghe chuyện tàm thực của ông bà
mình chưa? Sẵn đây tao nói luôn trót thể, bây học
được chút nào hay chút nấy, để nữa tao
quên.' Dì Tư trầm ngâm như nói với riêng mình. 'Ngày
xưa đất nầy của người đàng
thổ, dân mình ở ngoài Trung từ từ nhích lần vô,
đâu phải đi bộ thôi đâu, phần lớn
đi ghe để tới được những chỗ
khó khăn, trong hóc, trong xó, trong xẻo, trong gành. Mình tới
ở chung ở lộn với họ một thời gian,
họ không ưa chung đụng với dân lạ nên
bỏ vô sâu hơn, thét rồi làng nước chỗ đó
thuộc về người Việt. Đất đai
nước mình rộng lên từ từ. Đó là chánh sách
tàm thực do dân mình tự ý thực hiện để
mở rộng nước. Công ơn ông bà mình đã
lớn, mà công lao của ghe xuồng càng lớn hơn. Bây
đừng khi dễ nó.'
'Vậy người đàng thổ chắc
ghét người Việt Nam mình lắm phải không
nội,' con Gái hỏi một câu nghe được ớn.
'Chuyện đó thì đương nhiên
rồi. Đất đai của họ thinh không mình
tới ở, chiếm, làm chủ, chuyện ghét
thương làm sao tránh khỏi? Cũng như trong lòng mình
cảm thấy sao sao đó khó chịu về chuyện
mấy người 'cắc chú' có nhà có cửa, có
đất đai, có xe cộ vẻn-vang trên đất
nước mình. Thí dụ như bây giờ bỗng nhiên mình
qua Tây, qua Mỹ, ăn nhờ ở đậu trên
đất đai của họ năm nầy qua năm khác
chắc chắn là họ ngó mình bằng nửa con mắt
thôi.... Hai bên ngấm ngầm xung khắc, đụng
chạm là cái chắc. Bịnh bài ngoại dân nào cũng
chứa trong máu. Mà tao thấy cũng đúng, không trách ai
được!'
'Người ta ghét rồi người ta có
chém giết mình không nội? Lúc ban đầu họ đông
mình ít mà? Mình đánh đâu có lợi.'
'Chắc là có. Quyền lợi mà! Có lúc tao
nghe chuyện thổ dậy, chặt đầu
người mình liệng xuống sông lềnh khênh, tôm càng,
cá chốt mập ú, no tròn mà đâu có ai dám ăn.
Người ta cũng hỏng dám chài vớt bán nữa,
sợ người khác ăn mình bị tội. Lâu lâu
mấy tay bạt mạng túng tiền làm ẩu đem bán xa
xa cũng được nhắm mớ, nhưng mà bị
rủa, tội trời lắm!
Trở về chuyện thổ dậy, nói cho đúng
ra, tao cũng không thấy tận mắt. Chắc có lẽ
ở xa. Đâu miệt dưới. Dầu sao đi
nữa có người chết mới có miền đất
đai trù phú nầy. Mới có sông rạch cho mình
đậu ghe. Nếu không thì dân mình chùm nhum lại ở
ngoài kia chật chội ứ hơi chứ đâu có thong
thả như bây giờ. Tiên phong lót đường luôn
luôn thiệt hại nhưng ích lợi cho công cuộc
đường dài. Tao nghĩ nếu ông bà mình ngày xưa mà
ngán dao ngán búa thì bây giờ đất mình ước
chừng chỉ bằng cái bụm tay thôi, có khi bị Tàu
lấy mất tiêu rồi cũng không chừng.'
'Vậy quê mình không phải ở đây sao
nội?' thằng Đực không muốn nghe vòng vo tam
quốc, nó thắc mắc chuyện dính dấp tới mình
hơn.
'Tứ xứ ở trên đất
nước nầy, gần thì Sàigòn, Lục Tỉnh, xa thì
Hà Nội, Hải Phòng, đâu đâu cũng là quê
hương mình hết thảy. Có điều chỗ chôn
nhao cắt rún, chỗ ông bà của dòng họ mình lập
cơ ngơi ban đầu không phải ở đây. Mình là
lưu dân, đâu phải chánh gốc ở đất Sàigòn
nầy. Người ta gọi
xách mé 'trai tứ chiếng, gái giang hồ' là vậy đó.
Mà thôi! Bỏ qua chuyện đó đi. Quê thiệt của
mình có cái tên hơi 'lạ tai' một chút. Chợ
Đệm.'
Dì Tư tự thưởng mình bằng
nụ cười khi đã kiếm được một
chữ đặc biệt diễn tả quê hương.
Lạ tai chớ không phải quê. Dì nhấn mạnh,
'Chợ Đệm cũng gần đây chớ không xa
lắm. Xe cộ bây giờ nếu chạy một mạch
chỉ cần một buổi thôi, sớm mơi đi trưa
đã tới rồi.'
Thinh không dì Tư trầm ngâm ngang. Tên quê nhà
lâu không được nghe nhắc, bây giờ lại nghe
từ chính miệng mình, gợi trong lòng dì cảm giác
bồn chồn xao xuyến. Đường về không xa,
nhưng sao bao năm nay đâu dám nghĩ tới! Bà con không
còn, người quen phân tán, làng xã khó dàng trời! Nẽo
về bị chận nhưng đi về bằng tâm
tưởng, bằng trí tưởng tượng vẫn có
đủ sức để sụt sùi lòng. Kỷ niệm
xưa, không gian và thời gian cũ chập thành hiện
tại trước mặt, bào xé ruột gan, nước
mắt sống chực hờ rớt xuống theo nỗi
bùi ngùi.
Thằng Đực trong lúc đó vẫn
cứ ngơ ngơ, đủng đa đủng
đỉnh lật qua, lật lại mấy cọng rau
sà-lách cố rửa mấy hột đất dính ở
bẹ lá. Đối với nó, chợ Đệm, chợ
Quán, chợ Rẫy, chợ Đũi, chợ Gạo hay
chợ gì đó cũng chỉ là một cái tiếng, cái tên
như Thị Nghè, Bà Chiểu, Đất Hộ, Dakao, không
ăn nhập gì với nó hết, có lẽ còn thua, còn không
gợi cảm, không êm đềm bằng mấy chữ
chợ Cầu Ông Lãnh, chợ Cầu Muối mà nó nghe hằng ngày, sống
ở đó, lớn lên ở đó với kỷ niệm và
bạn bè ở đó.
'.....Còn nhớ nhà ông cố bây ở gần
sông, bên kia sông cách nhà chưa dập bã trầu có cái chợ
nhỏ, mỗi lần tao muốn đi chợ đều
phải kêu xuồng của con Thơm, con bác Hương Hào
Ngọ, để xin quá giang. Lắm khi phải réo rát
bản họng nó mới nghe. Sông không rộng lắm,
nhưng hai bên bờ trống trải, lùm buội không
nhiều, chỉ le-que mấy cây bần thôi. Tiếng kêu nó
huốt đi. Quá giang sướng là khỏi phải chèo
chống gì hết, thiên hạ đâu có cho! Mình dầu sao cũng
là khách trên xuồng họ. Nhưng lại phải mang
ơn thiên hạ. Có nhiều bữa con Thơm nó không vui,
mình ngồi cũng phải ké-né. Dì nói một câu không ăn
nhằm gì hết với chủ đề buổi nói
chuyện. Ở đời nó vậy đó. Nhờ cậy
ai thì lúc họ ể mình khó chịu, mình cũng ngại
cũng sợ, bởi vậy tao ngán nhờ vả lắm.
Cực chẳng đã!'
Tiếng Dì Tư
nghe chua chua xót xót như muốn ám chỉ đứa
con dâu vắng mặt. Con Gái ngước mặt lên ngó bà
nội, trù trừ một lúc mới hỏi.
'Như con có giang từ cầu tới
trường phải không nội? Nhiều bữa ông xe
ngựa không muốn rước nói là tụi con xuống
gần quá, ổng bị mất mối.'
'Ừ ! Nói có giang, hay quá giang, gì cũng
được. Bây giờ xe cộ chạy trên
đường, trên đất, có chèo chống gì trên sông
đâu mà nói giang, nói hà. Có một điều là bây quá giang xe
ngựa là bây đi một đỗi đường thôi,
không đi hết lộ trình. Mà quan trọng là bây có trả
tiền. Nói quá giang là mình nói cho nó lịch sự vậy mà.
Lời nói không mất tiền mua.'
Con Gái khen lấy khen để.
'Nội cắt nghĩa nghe hay quá. Cũng
như bữa hỗm nội cắt nghĩa tại sao ghe
nước họ bán nước ngọt cho mình mà họ
chỉ rao 'đổi nước không'. Hồi
trước con cứ lấy làm lạ, mình có đổi gì
với họ đâu. Mấy tiếng như vậy -
chừng nào con lớn lên, con đi học trường
lớn hơn, con mới biết hết phải không nội?'
Dì Tư quậy quậy khứa cá trong cái
nồi nước đang đỏ màu máu để
rửa lần chót rồi bỏ vô nồi, bắt lên lò.
Củi chẻ nhỏ, khô, bắt lửa nãy giờ, nổ
lốp bốp văng tàn tùm lum. Mắt dì rưng rưng
cảm động. Thằng Đực, con Gái hỏi
nhiều câu được ớn, coi cũng có đầu
óc lắm chứ đâu thua ai. Tụi nó mà còn ở nhà quê
chắc nổi bật lên giữa đám con nít trong làng. Mình
cũng nở mặt nở mày. Ở đây ai cũng
như ai, anh hùng tứ xứ, chuyện ai nấy lo,
hồn ai nấy giữ, giỏi dở gì cũng như
nhau. Thiệt uổng!
'Ừ! Tiếng mình có nhiều chữ
mắc mỏ,' dì gật đầu. 'Nhiều người
nói thì nói vậy chớ không biết trúng trật. Bây càng
ngày càng lớn, để ý sẽ học được
từ từ. Mình nói trúng thiên hạ không khi dễ. Cũng
như ông Trịn đó. Nít nhỏ chọc ông ta tại vì
ông ta nói chữ trật lất trật lơ. Ai đời
'tụi bây ăn ở độc dược với tao,
trời đảng mạng tụi bây! hay là 'bà con ăn
ở có nhơn duyên thì Trời Phật độ bà con.'
'Nội nói chuyện ông cố nữa đi
nội.'
Thằng
Đực lên tiếng, nóng ruột vì đề tài
đã đi quá xa. Dì Tư ngó thẳng về trước
mặt nhưng trí không thu nhận ngoại cảnh nào,
mơ màng, nói thiệt chậm rãi, sống lại quá
khứ qua những điều dì nói, một quá khứ
thiệt tầm thường, nhưng thời gian không
thể làm phai mờ.
'Ừ! Thì nhà mình là dân cố cựu nên
cũng đủ ăn đủ để, rân rát. Tao còn
nhớ nhà mình bự xộn, bốn năm gian, lại còn
có mấy lẫm lúa. Tao là con út, mấy anh chị có gia
đình ra riêng hết. Nhiều người theo vợ, theo
chồng đi ở xa. Ông cố già rồi. Chừng
độ bảy mươi. Trong nhà có chứa cái hàng, kêu
là hậu sự, cái hòm đó, mua hờ để có
sẵn, khi lỡ theo ông theo bà khỏi phiền nhiễu con
cháu. Ông cố bây..... Mà thôi! Nói hoài chuyện xưa thêm
rớt nước mắt chứ ích lợi gì.'
Dì kéo khăn chậm nước mắt. Con
Gái ngó sững nội. Nội nó cười với nó.
'Đâu để coi, lúc lớn ông cố
gả tao cho ông nội bây, cũng là người cùng
xứ, gia đình không khá giả nhưng là người
chơn chất làm ăn. Ra riêng, cha mẹ hai đàng cho
đủ tiền cất nhà cửa, mua sắm ghe cộ.
Nội có một cái ghe lớn bộn dùng để đi
lên tỉnh bổ hàng về bán. Hàng xén ấy mà. Đâu không
được bao lâu, gặp năm giặc giã lung tung,
đánh nhau long trời lở đất, thiên hạ bị
chặt đầu mổ bụng rần rần. Cả nhà
rút lên ghe, chèo thả theo sông kiếm chỗ tản cư.
Ở chổ kinh Tàu Hủ một đổi. Ở chỗ
kinh Lò Gốm cũng lâu ớn rồi lần hồi
mới trôi dạt tới đây. Đổi ghe nhiều lần
khi túng ngặt để lấy tiền ăn. Cuối cùng
mới tới cái ghe nhỏ nầy đó chớ? Bao nhiêu
năm rồi!'
Thằng Đực hỏi chuyện tâm
tình.
'Rồi nội nhớ nhà không?'
Con Gái cũng nhao nhao.
'Phải rồi! Nội có nhớ nhà,
nhớ chỗ nội sống hồi còn nhỏ không?'
'Nói cho cùng mà nghe, xa quê ban đầu
phải nhớ, ai mà hỏng vậy? Tao nghe bây đọc
như con két mẹ 'Chỗ quê hương đẹp
hơn cả' mà...' Dì trầm ngâm. 'Ban đầu thì cũng
nhớ... nhưng năm nầy qua năm nọ, mọi
chuyện rồi cũng đâu vô đó. Con người ta
ăn theo thuở ở theo thời, ở đó nhớ hoài
còn làm ăn gì được.
Tao chỉ buồn là ba bây mọc gốc mọc
rễ ở đây. Chỗ nầy nó đã quen nước
quen cái cho nên không dám nghĩ tới chuyện trở về
quê hương xứ sở. Còn bây thì khỏi nói. Nghe
tới hai tiếng Chợ Đệm lạ quắc lạ
quơ bây cho là chỗ quê mùa hủ lậu, chó ăn đá
gà ăn muối, làm sao bây nghĩ tới chuyện về?'
Dì Tư nhích tới chỗ con Gái ngồi,
dở nắp nồi, cơm vừa chín tới thơm mùi
nhựa gạo, đưa đũa bếp xới
xới. Tay dì quậy mạnh mẽ, thành thạo, nhưng
để ý mới thấy Dì cố tránh đụng
mạnh mấy cái hột vịt luộc ké trong đó. Xong
xuôi dì đập lên vành nồi cho mấy hột cơm dính
trên đũa bếp rớt xuống, đậy nắp
nồi, xây xây, lựa chỗ cho nắp vung khít khao với
miệng nồi để hơi khỏi bay ra.
Con Gái biết ý nội, lấy đôi
đũa sắt quậy trong lò, than vụn lọt qua
vĩ, rớt xuống phía dưới đỏ au. Nó vói
tay dụi mấy cây củi đương cháy đỏ
vô thau nước dơ cạnh đó, rồi chất vô
đống củi, tiết kiệm đề xài lần
sau. Dì Tư ngó cháu mỉm cười bằng bụng,
đưa tay xấp xấp xếp xếp mọi thứ
gọn gàng, kéo cửa sổ, hất hết rác rến
xuống sông rồi đứng dậy đi lấy chén
đũa. Cử chỉ của dì Tư thiệt tự
nhiên, thiệt bình thường nhưng thằng Đực
thấy bà nó cố gắng đè xuống đáy lòng
một thứ tình cảm gì đó mà nó lờ mờ hiểu rằng đó là nỗi
buồn nhớ quê của người xa xứ lâu năm
không được trở về, giờ đây nghe
nhắc tới. Nó ngó theo từng cử chỉ của bà
nội. Mường tượng nghe một tiếng
thở ra. Thương bà và cũng phục bà. Bà nói trúng
phóc, hổng trật một chút nào hết. Hôm qua đây
chứ đâu lâu lắc gì, trong lúc chờ con Gái từ
trường Tôn Thọ Tường băng qua để
đi về chung, nó đã tò mò đứng ngó gần
rớt con mắt ba bà nhà quê đương sà xuống mua
thuốc Nam của mấy người Chàm bày bán trên lề
đường. Nó lấy làm lạ về mấy
người Chàm thì ít. Họ nói bằng thứ tiếng líu
líu lo lo bổng trầm. Họ bận quần áo màu mè, lòe
loẹt thùng thình. Họ đeo
cả chục cái vòng ở mỗi cườm tay.
Mấy chuyện này mới gặp lần đầu thì
lạ. Nhưng bây giờ thì quá thường rồi, quá
quen rồi. Cứ vài ba tuần, thì thế nào cũng có
năm bảy người, đàn ông có, đàn bà có, bày
thuốc ra bán. Thuốc rễ cây, lá cây khô. Họ còn bày
biện ra trên mấy tờ giấy dầu những
sản phẩm đặc biệt của rừng núi,
rất thu hút người thành thị như là mật
gấu, nanh heo rừng, gạc nai, củ sâm, răng
cọp, lông đuôi voi. Có bận họ còn chưng nguyên
một con khỉ khô, nguyên bộ dạng ngồi chòm
hỗm, nhăn răng như khi còn sống, giành ăn khọt
khẹt làm cho người ta bu lại coi đen nghẹt,
chật hết lề đường. Hôm qua nó cũng
lấn vô để hy vọng được coi con khỉ
khô lần nữa. Nhưng không có gì hết. Chỉ thấy
mấy người đàn bà nhà quê, bận hai ba cái áo
một lượt, khi móc tiền ra trả, rụt rà
rụt rè vén từ cái lên, tiền ở trong túi cái áo chót.
Họ lây quây mở kim tây, lấy từng đồng
bạc mới tinh ra, mấy tấm giấy một
đồng thẳng thớm vừa thơm mùi giấy,
vừa thơm mùi long não, họ đếm tới
đếm lui, năm lần bảy lượt mới
chịu đưa tiền. Đưa rồi mà họ
thiếu điều của hỏng muốn rút tay về.
Nó đứng ngó trân trân cảnh
tượng đó, quên mỏi cẳng, quên con Gái
đứng ngoài sau kéo áo nó mấy lần đòi về. Nó
như á khẩu, hồn trí bay bổng lên cung Dao Trì, lên
vườn Tây Vương Mẫu, mất hút không còn
biết gì nữa. Lạ quá, phải ngó, phải dòm. Họ
như cha căng chú kiết nào đâu á, không giống ai
hết. Họ nói chuyện với nhau thì phải biết. Lạ
lùng về tiếng đã đành mà còn lạ về cách nói
nữa! mình ên, chời ơi, xấu như ma móc,
ếm-cùm-cum, chèn-đéc-ơi, quỷ thần thiên
địa ơi, giùm làm. Họ rụt rụt rè rè, lơ
ngơ, láo ngáo. Không giống ba nó cười cười nói
nói vui vẻ, không giống má nó bận có một cái áo túi
năm nầy qua năm khác. Tiền, khi ba nó hỏi, thì
đưa liền chứ không tiếc hùi hụi con mắt
ngó theo hoài. Cũng không giống mấy người bạn
hàng ồn ào, sôi nổi, miệng bằng tay, tay bằng
miệng. Không giống mấy chú khiêng hàng, bất kể
quân thần trời đất, chạy càn chạy
lướt, xô đẩy mấy người chậm chân
lóng cóng, hễ ai than phiền thì cự nự, chửi
thề, bậm trợn.
Người ở đây vậy đó. Mau
lẹ, lanh lợi, dữ dằn, vui vẻ, liếng
thoắng. Họ không làm người khác sợ thì thôi,
chứ ai mà cà rờ, cà rờ, cà rịch, cà tang, mua có
một mớ thuốc mà tốn hết cả buổi
trời, khóm ra khóm róm như sắp bị ăn tươi
nuốt sống. Chỉ cần gặp một lần thì
biết là nhà quê rồi.
Nó ngửng đầu lên khi trí nó
đụng nhằm một thắc mắc không giải
quyết được.
'Nội nè!
Bộ mấy người dưới quê hết
thảy đều quê mùa sao nội?'
'Không vậy, nhưng những người
ở quê không nhiều thì ít đều có những cử
chỉ mà người ở chợ cho là nhà quê. Cũng có
người có ăn có học đến đó chứ.
Mấy ông hương chức hội tề, mấy cô
cậu tiểu thư công tử con chủ điền,
chủ lò đường, lò gạch, chủ chợ,
chủ ghe đò... Mấy thầy giáo nữa chi? Đâu
phải ai cũng cày sâu cuốc bẩm ù ù, cạc cạc,
củi lục hết, có người từng đi học
trên tỉnh, thậm chí có người từng lên Sàigòn
học nữa! Nhưng mà sống dưới quê, lâu ngày
nhiễm cách ăn nói, quen cử chỉ của người
chung quanh nên có hơi lạ đối với người
ở chợ. Bây thấy đó, khác chớ đâu phải
quê, mà cho là quê đi, cũng không có gì xấu hết. Họ
coi lẫm rẫm vậy mà xài được ớn
chứ hổng chơi đâu. Họ thiệt thà chơn
chất, cục mịch nhưng một là một, hai là
hai... Nói cho cùng mà nghe, nếu tao còn ở Chợ Đệm
tới giờ thì thằng tía bây đã thành nhà quê. Bây là con
nít nhà quê. Người ta nói là quê rít quê rang, quê từ
đầu tới đít là vậy đó. Quê ba bốn
đời.
Con Gái vỗ tay cười, nói một câu
thiệt là lạc quẻ.
'Ha! Ha! Mày là đồ nhà quê.'
Thằng Đực mơ màng, nó như không
nghe em nó cười ngạo vô lý. Nó thấy mình lớn
bộn sau câu chuyện, lên giọng nhận xét tài khôn.
'Như tụi con đây cũng nhà quê
phải không nội?'
Tên gì mà thằng Đực, con Gái, mấy
cái tên đó để kêu ở nhà mới phải, vô
trường phải có tên khác chứ.'
'Thì tao đặt bậy vậy mà. Ba má bây
không chịu cũng phải chịu. Có sao kêu vậy. Gái,
Đực, Bông, Lành, Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Trâu, Bò. Tao
cũng biết đặt đẹp cho cháu vậy.
Huỳnh Hoa, Trí Dũng, Hiền Tâm, Thiên Kim. Nhưng mà tên
quê có cái dễ thương riêng của nó. Bây không thấy
nó đơn giản, mộc mạc thiệt thà đó sao?
Tên đẹp mà làm gì, lòng mình đẹp tốt bằng mười...
Với lại con nít mà đặt tên đẹp quá ông bà
quở, ấm mỏ ác, khóc đêm ọc sữa tối
ngày ai chịu cho nỗi. Nhờ tao đặt bậy
vậy cho nên bây mới sởn sơ mạnh dạn cho
tới bây giờ. Nêu không, nói bậy mà nghe, biết đâu
bà hú tụi bây hồi năm rồi. Nhứt là thằng
Đực. Đã là con so mà lại xấu háy nên lặc lìa
lặc lọi năm nầy qua năm khác, hỏng có tao thì
bây đã đi đầu thai mấy kiếp rồi.
Một tay tao chạy thầy chạy bà, kiếm thuốc
kiếm thang, chớ mẹ mầy còn nhỏ quá có biết
cái mốc gì đâu?'
Thằng Đực sợ bà nó nhắc
lại những trận đau ngày xưa của tụi nó.
Xáp vô chuyện nầy bả xà quần cầu nửa ngày
chưa hết. Nó nói vời sự cảm xúc dào dạt
trong lòng.
'Như vậy có nghĩa là quê hay không quê tùy
thuộc chỗ mình ở. Mà quê cũng không có gì là xấu.
Thấy ai quê mùa mình phải thương chớ không
được khinh khi phải không nội?'
Dì Tư cúi xuống cắt cắt mấy
cọng hành không ngó lên. Dì chần-chờ một đỗi
mới trả lời thiệt nhỏ, giọng mơ
hồ, xa vắng.
'Xứ quê chứ người không quê.'
Mắt dì Tư ươn ướt.
Một giòng nước đọng lại, chỉ chờ
một cái chớp mắt là nhiễu xuống. Dì nhớ
tới xứ quê mùa hủ lậu của mình. Con sông êm
đềm nước chảy, lâu thiệt lâu có khi cả
ngày trời mới có một chiếc ghe đi ngang.
Cảnh buồn hiu nhưng chứa chan bao thân thiết khi
còn nhỏ, nào tập tễnh lội bập dừa, nào
chơi đập nước quậy bùn khi mới
lớn, nào thẹn thùng tắm dưới trăng lúc
nửa đêm nóng nực. Vườn mía Tây mập cùi
cụi trước sân, chỉ nghe tiếng lá xào xạc
trong gió cũng đủ ngọt miệng huống hồ
gì được tự do ngồi trong luống cạp
mấy lóng vàng lườm, tươm mật rít tay.
Phải biết! Ngậm mà nghe! Cả xứ chỉ có
vườn mía mình là một,
căn nhà nữa, lót gạch Tàu lên nước bóng láng
từ trước tới đằng sau, buổi trưa
nắng đổ lửa mà ngả lưng xuống thì nghe
mát rượi hết cả tứ chi. Buổi sớm
tiếng chim kêu ríu rít trong bụi quanh quất đâu đó
khi trời mới thả vài tia nắng sớm, se sẻ,
chào mào, chích chòe đua nhau hòa tấu điệu bình minh. Cái
giếng hộc lấp ló sau mấy thân cây chuối lửa
bự bằng cột nhà....
'Con phải thương mấy
người nhà quê phải không nội?'
Thằng Đực hỏi khôn hỏi khéo,
nhắc lại bổn phận tự đặt khi thoáng
thấy một thứ tình cảm gì đó lạ lùng
lắm, hiện diện trên gương mặt xương
xẩu của nội nó. Nó xốn xang vì giọt
nước mắt thì ít mà vì sự im lặng
đương phũ trùm trong ghe thì nhiều. Nó bỗng
nhiên có cảm tưởng mình được nối
kết thật chặt chẽ với một khung cảnh
mà lâu nay chỉ mường tượng là vắng vẻ,
đìu hiu nhưng đã chứa chấp tổ tiên ông bà mấy
đời trước đó, với những quần
vải áo bô, mặt xương, chưn mốc, tóc hớt
cao, những người mà trước đây nó thờ
ơ, xa lạ thậm chí còn khi dễ.
'Mà con nói cho nội biết tại sao con
nghĩ tới chuyện đó?'
Thằng Đực câm họng, không
biết nói sao để diễn ý thành lời. Lớn
đại, mười hai, mười ba tuổi
đầu, nhưng nó chưa hề suy nghĩ trừu
tượng, cũng như diễn tả tình cảm
của mình. Nó đứng đực mặt, bậm môi,
rặn lắm, nhưng cũng không nói được
hết ý:
'Con nghĩ là....là con hên hơn
họ...Họ...xui xẻo...chớ không phải ai tài
giỏi gì hơn ai?'
Dì Tư không ngờ được có câu
trả lời như vậy. Dì tưởng mình sẽ nghe
về tình người, tình dân tộc, đồng bào, trái
lại đụng nhằm một câu nói trúng ngay thực
tế. Phải, người hên người xui nên thành
người chợ búa kẻ quê mùa thôi. Không có gì khác hơn
chơn lý đó.
'Ừ! Ở đời mỗi
người đều có phước có phần riêng.
Trời cho ai nầy hưởng. Quê chưa chắc
xấu, thành thị chưa chắc hay. Hay là quê mà không ngu
dốt, không hủ lậu, thành thị mà không lém lỉnh,
gạt người và che đậy một cách tức
cười cái gốc gác của ông bà tổ tiên. Tao
thấy có người mới tới đây đâu có bao
lâu, gặp thời xưng hùng xưng bá, nói láo ngang láo
dọc mà không biết mắc cỡ miệng tao bắt
tức cười... Với tao thì quê hương tao luôn
luôn là hình ảnh sáng chói trong lòng mặc dầu đã xa
xứ từ lâu.'
Con Gái bình thường bô bô cái họng
hỏi không liền da non, bữa nay cũng thấy
khớp trước những điều mới mẻ
vừa được nghe. Nó bâng khuâng vừa bồn
chồn vừa bùi ngùi. Nó nhớ tới một đứa
nhỏ cũng chừng trạc tuổi nó, cặp mắt
ngơ ngác, khô cằn, cái kẹp ba lá kẹp sau đuôi tóc,
bận cái áo túi bông xanh xanh, cả ngày lúc thúc, lủi
thủi trong khoang chiếc ghe chở nồi ơ, cà ràng,
ông lò mấy bữa rày đậu kế bên ghe nó mà mỗi
lần nó trừng mắt làm bộ bậm trợn
để hù nhát thì con nhỏ lấm la lấm lét quay
mặt đi hay cúi gầm xuống im thin thít. Nó ước
thầm trong bụng. Ưng ai mai mốt ghe đó
đậu chỗ này nữa để tôi làm quen với con
nhỏ đó, tôi xin lỗi nó. Lúc đó tôi đâu biết
giỡn chơi như vậy là bậy. Ưng ai ông
địa làm phước!
Nó ngó ngọn lửa đã tàn trong lò,
mấy cục than đã cháy gần hết đương
bắt đầu phủ một lớp tro trắng xám
chung quanh, ánh lửa lâu lâu sáng hực lên, chiếu bóng khói
lên vách ghe mỗi khi có cơn gió thổi lòn vào trong mui. Nó
nhìn chăm chú ánh lửa, mơ màng thấy mình với con
nhỏ có cặp mắt ngác ngơ, nắm tay nhau đi
xuống phía chưn cầu, chỗ xác mía chất chồng
đầy dẫy, tay trong tay vừa cười nói thân
thiết vừa dòm thán phục mấy chị đàn bà
đương lanh lẹ róc mía chất lên mấy cái xe ba
bánh, và nó đã mạnh dạn nài một khúc ngon ớn
bẻ hai chia cho con nhỏ.
Thằng Đực vẫn đeo
đuổi ý nghĩ của mình. Quê hay không quê khác nhau
chỉ là rời xứ
sớm hay không mà thôi. Không hay ho gì hết trơn hết
trọi. Cái hay ho là biết nhớ biết thương
xứ nhà quê của mình, hay nói theo cách của bà nội nó
'Quê hương phải là hình ảnh sáng chói trong lòng'.
Lâu lắm dì Tư mới đứng
dậy lấy chén đũa dọn cơm. Dì nói lớn
một câu vớt vát để phá tan không khí đặc
biệt đương trùm phủ không gian.
'Thôi ăn cơm bây, trưa trờ trưa
trật rồi. Kiến cắn bụng quá! Nãy giờ
mấy bà cháu mình lo nói chuyện tầm-ruồng bá-láp không.'
Bên ghe đậu gần đâu đó, có
chị đàn bà buổi trưa nằm nói thơ giải
buồn, hứng chí nói lanh lảnh mấy câu thơ Sáu
Trọng thiệt ngọt ngào, nhưng lời thơ
thiệt thấm thía:
Trọng rằng: 'Buôn bán không lo,
Nói
chuyện đưa đò chè cháo lạnh tanh.'
Đẩu rằng :'Lòng khiến
thương anh
Cháo
chè nguội lạnh cũng đành bụng tôi.'
Thằng Đực vảnh mỏ ra nghe,
mỗi lần chị ta nói thơ Sáu Trọng là nó khoái trong
bụng. Nghe ngày nầy qua ngày khác nó gần như đã
thuộc nằm lòng nguyên cuốn thơ. Nó nhớ tới
Sáu Trọng người lưu lạc mà anh hùng, thẳng
thắn, gan dạ. Nó thấy bà nội nó coi quê mùa dốt
nát mà nói ra những điều thiệt đáng kính
phục, những điều nó chưa từng học
ở nhà trường, chưa từng nghe ai giảng
giải mà tạo được xúc động lớn lao
như vậy.
Nó lập lại trong bụng, tầm
ruồng, bá láp, đưa đò! Không tầm ruồng bá láp
đâu nội, không đưa đò đâu chị. Ích
lợi còn hơn uống mười thang thuốc bổ
nữa đó nội. Đáng giá còn hơn bạc ngàn đó
chị. Nội đã dạy con yêu mến quê hương,
thân thiết với người nhà quê tội nghiệp.
Chị đã dạy em nghĩa khí can trường, biết
phẫn nộ trước những bất công của
cuộc đời.
Con Gái đã trở về thực tại
sau câu nói của nội nó. Nó tiếc tiếc hình ảnh
hồi nãy nhưng cũng nghe lời đứng dậy
dọn cơm.
Đương bưng nồi cơm
xuống để lên cái rế bỗng nghĩ ra một
điều, nó lật đật để xuống,
phủi tay lia lịa, hỏi một câu thiệt đáng
đồng tiền.
'Chừng nào mình mới về quê thăm quê
mình hả nội?'
Dì Tư cảm động ngó cháu.
'Cái đó còn tùy nhiều thứ lắm con!'
Dì không nói thêm gì, nhưng tiếng con
được kéo dài thiệt ngọt ngào, thiệt bao la.
Thằng Đực và con Gái ngó nhau, lờ mờ trong trí
chúng nó đại để chuyện về quê còn tùy
thuộc nhiều thứ mà bà nội chưa thể kể
ra ngọn ngành nhưng chắc chắn là sẽ về
một ngày nào đó. Câu trả lời của bà, người
ngu cách mấy cũng cảm thấy ẩn dấu trong
đó một tình cảm dạt dào, sâu đậm, một
sự ngóng trông, hướng về; một nỗi niềm
tiếc nuối... Hai đứa thấy mình đã hiểu
bà, hiểu tại sao ánh mắt bà vời vợi, tại
sao câu trả lời như một lời than, một cái
chép miệng. Và thằng Đực bới một chén
cơm thiệt đầy, kính cẩn đưa hai tay
mời bà nó. Con Gái lặng lẽ trở mấy chiếc
đũa lộn đầu về một phía, so so rồi
lựa đôi tốt nhứt kiếng cho nội. Đôi
kế tiếp nó đưa cho anh nó. Thằng Đực
đưa tay ra nhận mà lòng tràn ngập khoái cảm. Nó
ngước lên ngó em bằng ánh mắt thân thiết. Hai anh
em cùng mỉm cười, lâng lâng nôn nao, khác với lúc bình
thường hằng ngày như được cho một
đồng bạc, một gói xôi, hay ổ bánh mì cá hộp.
Lạ lắm. Khác lắm.
Bên ghe kia, chị đàn bà đã bỏ
thơ Sáu Trọng qua thơ khác, chị ngâm nga nghe
đứt ruột đứt gan:
'Mười giờ tàu lại Bến Thành
Xúp
lê vội thổi bộ hành xôn xao.'
Thằng Đực và con Gái lại
đưa mắt ngó nhau lần nữa. Trong trí hai
đứa hiện lên đồng loạt khung cảnh
bến tàu đò nhộn nhịp ở đằng
đầu kia chợ với những người đàn bà
áo quần tươm tất từ dưới bước
lên, tay dắt mấy đứa nhỏ, ngơ ngác ngó
cảnh vật lạ chung quanh. Hai đứa đều
ước ao mình được ngồi trong tàu đò đi về miền quê
hương trong tâm tưởng, một thứ quê hương
được cấu tạo trong thần trí bằng tình
cảm thiêng liêng chớ không bằng một chút kỷ
niệm nhỏ nhoi nào.
Dì Tư ngồi chống đũa. Con sông
trống trải hai bên bờ, vườn mía Tây xào xạc,
tiếng chim kêu líu lo buổi sớm, và cái giếng hộc
ngọt lịm kế bụi chuối sau hè đã che
mất thực cảnh trước mặt.
(Trích Ngày Tháng Bềnh Bồng, Gió Việt,
TX, 1987)