TÌNH ĐẤT
Nguyễn Văn Sâm
"Trong thế gian nỗi sầu đau
đớn nhất,
Cũng
không bằng sầu mất quê hương."
(Thái
Tú Hạp)
Buổi
sáng sương mai còn ngái ngủ trên lá. Không khí trong lành tinh
khiết, mọi vật tràn đầy nhựa sống, sẵn
sàng chịu đựng nắng mưa bất thường
của ngày mới. Vườn thơm bên kia đường
phô diễn từng luống thẳng tắp, từng bụi
tỏa lá xòa ra xanh ngắt, tủa gai; giữa mỗi bụi
đậu một trái nho nhỏ mới nhú bằng cườm
tay, xanh mởn. Đứng đầu vườn ai
cũng vui mắt ngó, tưởng tượng như hàng
ngàn đóa hoa thật lớn với những đài hoa lê
thê nâng niu nụ xanh mơn mởn tròn trĩnh bên trên.
Phía
bên nầy đường trải dài bát ngát vườn lài
rộng. Mùi thơm thoảng quyện mơ hồ trong không
khí ươn ướt buổi tinh sương. Những
nhánh lài nho nhỏ, mảnh mai đầy bông trắng, lốm
đốm, dát ngọc toàn thể khu vườn bao la. Chim
chóc vẫn còn trốn tránh đâu đó, biếng lười
kéo dài thêm giấc ngủ chờ chút nắng sớm để
ca hát đón chào bình minh.
Thỉnh
thoảng một chiếc xe ngựa mù mờ ẩn hiện
trong bóng đêm, đèn xe che bằng bốn tấm kiếng
khác màu cung cấp một chút ánh sáng yếu ớt ma trơi
huyền hoặc, móng ngựa sắt gõ trên đường
trải dầu hoắc lóc cóc tạo một hòa âm đồng
điệu kéo dài từ mơ hồ xa xa tới rõ rõ từ
từ rồi chui lọt tan biến giữa hai khu vườn
ép sát hai bên hông con đường nhỏ còn đẫm
nước sương.
Sắp
hàng bên lề, hai dãi cây dầu con, mặc dầu còn
được cột dựa vô một miếng ván nhỏ
mới đứng vững, buổi sáng sớm coi bộ
cũng sởn sơ hơn, đứng ễnh ngực kiểu
đội lính danh dự xếp hàng làm cảnh trong buổi
lễ lộc vương giả. Vài mái nhà ba gian nền
đúc, dãi cột hàng ba bự xông nghênh ngang lõ mắt trong
gió sớm ngó về lớp bông trắng xóa ngang hông người,
như lớp mây bông gòn phất phới mờ ảo khúc
Nghê Thường.
Cô Út
hít một hơi thiệt dài, khoan khoái. Bao nhiêu năm nay, từ
khi rinh nổi nửa thùng thiếc nước, mỗi sáng sớm
cô đều ra vườn tưới bông, vậy mà bữa
nào cũng có cảm tưởng như mới lần đầu
được làm cái công việc cô thích thú đó. Vườn
đẹp không thua tiên cảnh, bên vườn lài, trắng
xóa, thơm nhẹ, thoang thoảng mơ hồ như có nhiều
nàng tiên nữa lẩn khuất xa gần, bên vườn
thơm, xanh ngắt lãng đãng mùi lá đầy nhựa
mạnh mẽ tỏa ra cái sức sống của một
đội dũng sĩ tràn đầy sinh lực. Giọt
sương long lanh trên lá, trên hoa, trên nụ, trên nhánh, dát kim
cương hột cám chung quanh những viên ngọc lớn.
Tất cả không gian êm đềm, ngưng đọng kiểu
một khu vườn thần thoại đắm mình trong
giấc ngủ thời gian.
Cô
đưa tay nưng niu mơn trớn một nhánh bông. Những
giọt sương thức giấc lăng xăng, chạy
về chỗ thấp, đụng đầu nhau, hợp
thành một, lớn lên từ từ rồi rủ nhau
nương theo sóng lá chạy tọt xuống đất.
Nhánh bông vẫn mơn mởn nằm trong tay cô chủ, thỏa
mãn được cái nhìn trìu mến, tưng tiu. Cô thả
ra, kéo một nhánh khác, những viên ngọc nhỏ khác lại
tung tăng chạy trên sóng lá rồi hè nhau nhảy xuống
đất. Cô ngó theo, mắt mở lớn vui vui, đất
sớm mai trùn đùn đầy mặt vô số đống
nho nhỏ cao bằng cái chén chung, những cục đất
tròn vo nhỏ như viên thuốc tiêu ngày còn thơ dại má
mua năn nỉ uống mỗi khi sình bụng. Cô rút
chưn ra khỏi chiếc guồng lồng mức, đạp
đạp nhẹ giỡn với đất, sương sớm
quyện trong đất chạm vô lòng bàn chưn mát rượi
truyền cảm khoái nhẹ nhàng lên tới sóng lưng chạy
dài lên ót. Cô mỉm cười sung sướng như thích
thú vì cử chỉ vui đùa trẻ trung của mình.
Bỏ
chưn vô guốc lại, cô bắt đầu thiệt sự
công việc làm hằng ngày. Cô bợ đít bình tưới
lên cao hơn với độ cao vừa phải, tính toán
trong đầu sao cho mấy tia nước phụt ra không
vọt mạnh làm đau đớn bất cứ nhánh bông
nào. Nước đem nguồn sống tới toàn thể
khu vườn nhưng một tia nước mạnh có thể
làm chết số bông già, sắp được lặt nay
mai, cô thấu đáo nguyên lý đó ngay từ ngày còn nhỏ
ra vườn coi cha cẩn thận tưới cây, tưng
tiêu triều mến săn sóc khu vườn.
Cô lên
tiếng với dì Tám Sang đương tưới luống
bên mặt:
“Mai họ
tới lấy bông khô, dì Tám thấy bông mình hái tuần rồi
quá dốt chưa. Lần trước còn ỷ ỷ họ
mắng vốn quá, nói mình mần ăn không giữ chứ
tín, họ trừ tiền hết một thùng. Nếu cần
trưa nay dì cho phơi thêm một nắng nữa.”
Cô nhớ
tới chuyện đong bông lần trước. Đã thất
thâu còn bị nặng nhẹ đủ điều, cãi không
lại họng tụi nó nên đành bóp bụng không dám hở
môi. Đối với ông già còn ngậm câm hơn, nuốt tức
giận vô lòng sợ cha buồn bịnh nặng thêm. Ông già
Bảy đương tưới luống bên trái, bất
bình ứng tiếng:
“Sao cô
không cho tôi hay, tôi sạt cho tụi nó một trận? Vậy
mà ỷ ỷ nỗi gì nữa chớ? Thêm một nắng
nữa thì khô quéo hết, hao cầu mấy thùng bông của
người ta. Họ ỷ mua nhiều quá bắt bí quá rồi,
trả tiền mà đặt cà dựa, nhấp nhấp, lại
còn làm eo làm xách chê hôi chê thúi ai chịu cho nổi.”
Dì Tám
chậm rãi:
“Tụi
nó là vậy không. Cười cười nói nói nhỏ nhẹ
mà móc túi thiên hạ tới cắc bạc cuối cùng. Cô coi
bộ thằng cha Hồng ký xài hổng vô thì chịu mối
với tụi Phát ký đi. Trà ‘Thiết
Quan Âm Kỳ Chưởng’ của họ thơm lắm,
bán đắt, chắc họ cần bông của mình, mấy
cái vườn nhỏ đằng miệt sau vườn Bà
Lớn làm sao cung cấp đủ”. Dì cười nửa
miệng, giọng thiệt vui: “Còn cái ông gì ở bên Giồng
Ông Tố muốn làm trung gian, mua mão bông nguyên vườn
để bán lại cho các tiệm trà, mình khỏi tiếp
xúc từng người một cô tính với ổng
chưa? Tôi thấy cách đó cũng hay hay, khỏi cực
lòng cực trí đối phó với từng bạn hàng.”
Cô Út
đổ thêm nước vô bình tưới, xách đi về
cuối luống, trả lời nhỏ nhẹ:
“Tính
như vậy thì cứ tính, chứ tụi nó phe đảng
đàng trời, thằng này chê eo thì thằng kia chê tròn chê
méo. Ông ta cũng một lò họ ra chứ đâu. Lệ thuộc
một mình ông ta tới chừng xích mích thì càng hỏng giò
hơn.”
Cô
giơ cao bình tưới lên, thân yêu theo dõi mấy tia nước
rót trên bông trên lá ở những nhánh cao hơn.
Cô ngó
về phía mấy người bạn làm, cẩn thận sợ
họ thấy bộ mặt mình áo não. Đầy ứ khó
khăn trước mặt. Tụi Chà Và, tụi Tiều Châu
cứ đòi mua đứt miếng vườn. Anh Năm
thì cứ đốc thúc ông già ngày một bán đi để
làm ăn thứ khác. Hỏi làm gì thì ảnh mờ ớ nói
không rõ ràng nhưng ý như là muốn đòi chia gia tài ngay
bây giờ. Thơm càng ngày càng sút giảm. Năm nay cho ra
mười thiên thâu huê lợi không bằng năm ngoái
năm thiên. Bạn hàng gần thì mặc may còn tới đếm
chứ ở xa thì coi như trốn luôn giựt ba cái tiền
thiếu chịu trước đó. Người nầy một
chút người kia một mớ, lặc vặc, cộng lại
cũng bộn bàng, nghĩ tới thiếu điều chóng
mặt. Mấy người tới đếm không tế
nhị hay là muốn nói bóng gió xa gần cho mình biết mà cứ
nức nở khen thơm Lái Thiêu ngon dịu, thơm Bến
Lức ngọt thanh. Ông già bịnh rề rề cả hai
năm nay từ bữa trúng gió khi đi dẫy mả bà
già. Nhà càng ngày càng thấy buồn. Lạnh tanh như mới
đưa đám ma. Nhang khói bà già không ai nhớ đốt
ngoài mình. Ông anh ôm mấy cái xe ngựa đã không giúp chuyện
mắm muối chung trong nhà thì chớ lâu lâu lại thẹo
nẹo mượn tiền rồi không bao giờ trả.
Anh Tốt thì ông già bắt đi Tây học, ban đầu
còn chống chế, lúc nầy coi bộ xuôi xuôi, chắc
trước sau gì cũng đi, bỏ thân mình phận gái một
tay đối phó với khó khăn dồn dập tứ
phía. Cô đưa tay quẹt mấy giọt nước li
ti bay phất phới trong không gian, gặp gió trốn chạy
trên mặt, trên trán.
Tiếng ông Bảy rươm rướm:
“Có gì cũng cố gắng vững tay chèo
nhe cô Út. Buông xụi lúc nầy tụi tui không biết đi
đâu… Mà uổng nữa. Cơ ngơi nầy đâu dễ
gì tạo. Xô dễ chứ xây dựng thì khó đàng trời,
theo tui đã có được thì bất cứ giá nào
cũng phải giữ. Đất vườn bây giờ
lên giá lắm. Ngưng một lúc thiệt lâu ông mới trầm
ngâm thêm: “Như là miệt
dưới không yên thiên hạ đương đổ xô
về Sài Gòn”.
Dì Tám Sang nói vói qua ông Bảy, giọng thật
trầm như chỉ muốn đủ hai người
nghe thôi:
“Từ lúc ông bịnh, coi mòi cô càng ngày càng
xanh xao, thấy tội nghiệp quá! Xót ruột mà không biết
phải làm sao. Thôi anh Bảy đừng nói nữa cô ấy
rớt nước mắt bây giờ.”
Buổi sáng yên tịnh cô Út nghe mơ hồ
nhưng đoán được hết, nước mắt
cảm động sắp rơi, cô cũng muốn khóc cho
hả hơi. Của ông bà tôi để lại, tía tôi cả
đời bù đắp. Má tôi bịnh hoạn ở
đây. Anh Hai với anh Ba tôi bị nạn ở đây. Bây
giờ tía tôi nằm đó, lẽ nào tôi không lo? Có điều
sức đàn bà con gái lại đơn chiếc mà không họ
hàng, lo cho mấy cũng không chắc bằng thiên hạ. Có tận nhân lực đó
nhưng mà còn tùy thiên mạng.
Cô thọc tay vô vòi nước, đưa
lên thoa thoa mặt. Nước buổi sáng mát lịm khuây
khuây lòng. Nước chun vô môi, cô liếm liếm, nghe ngon
mát tận cuống họng. Cô gượng vui chỉa vòi xuống
rửa chưn. Đất cát cứ nhảy vọt khỏi
mặt đất leo lên guốc như muốn nựng nịu
đôi bàn chưn nõn nà của cô chủ. Một mớ cát
dính được vô sau gót. Cô vừa rửa vừa ngó
chưn mình. Đỏ thiệt tình. Nhưng mà sóng đời
dập tới vùi lui biết còn đỏ được
bao lâu nữa!
Cô tưới mạnh hơn, lấy
chưn nầy chà lên chưn kia. Chà mạnh lên quai guốc.
Nước xoáy mòn đất chung quanh hai chiếc guốc.
Vẫn còn một vài hột cát len lỏi trên da mát rượi
của người con gái. Cô xách bình nước đi về
phía giếng. Dì Tám Sang đi theo bên phía nầy, nói nhỏ
trong khi quay lại ngó chừng ông Bảy:
“Ba của cậu Tốt mời bạn bè
ra ngoài ngày tới ăn mừng cậu ấy được
giấy đi Tây học bác sĩ.”
Cái bình tưới được đặt
xuống đất hơi mạnh tay:
“Tôi đã biết từ hai tháng nay lận.
Chuyện tới phải tới. Ảnh ở đây
đâu có tương lai. Ông già hối như giặc ngày một.
Lạng quạng ở lại bị lính xúc vô quân trường
có ngày. Con một, ba ảnh lo xa cũng phải.”
“Rồi cô tính sao?”
Mấy giọt nước đeo cứng
trên khóe mắt cô Út giờ mới chịu buông tay xuống
đất:
“Tính sao giờ? Người đi cứ
đi. Người ở cứ ở. Ai lo chuyện nấy.
Sau nầy gặp lại thì tốt, không thì ai có cuộc
đời nấy. Không hứa gì hết để khỏi
cực lòng cực trí đôi bên. Nước sông chảy rẽ
nhánh chia dòng là thường, tiếc cũng không làm gì
hơn được.”
Người đàn bà buông dụng cụ xuống,
ngó cô chủ, áy náy:
“Phải chi cậu Tốt ở lại giúp
cô gây dựng thêm miếng vườn nầy thì hay biết
mấy. Nằm đêm tôi vái van hoài cho thổ thần thổ
địa cuộc đất giục cho cậu đòi ở
lại. Thiên muôn gì chuyện phải làm, một mình cô lo
đâu xuể. Cậu Năm có lo khỉ gì đâu; phá cho
tanh bành té bẹ thì có!”
Cô Út chấm dứt khi đề tài đi
quá xa:
“Thôi sáng rồi, dì vô kêu con Cúc dậy tôi với
nó đem bông ra chợ. Rằm tháng chạp chắc bán
cũng không đến nỗi nào. Mình sửa soạn sẵn
sàng không thôi anh Năm ảnh lại cằn nhằn cửi
nhửi mất vui.”
Trong ánh sáng mờ mờ cuối đêm
đầu ngày hàng mấy chục chậu bông được
chất khéo léo lên chiếc xe ngựa sẵn sàng cho một
buổi chợ bông những ngày giáp Tết. Con Cúc tuy đã
rửa mặt mày sạch sẽ, tóc tai gọn gàng nhưng
coi bộ còn ngái ngủ lắm, ngồi vắt vẻo trên
một cái càng xe ngó cô chủ lười biếng chào bằng
một nụ cười mỉm nhẹ. Hai cái đèn xe
treo lủng lẳng dưới lườn cùng chao mạnh,
đong đưa thiệt mau hai cái bóng qua lại giao thoa
trên nền đất khi lên xe dốc vô đường
cái.
Vầng dương từ từ nhú lên
đằng phía chơn trời. Tiếng ồn ào thức
giấc của ngày mới chừng như đã bắt
đầu.
***
Nói nào
cho ngay, con Út không ghét bỏ gì tôi. Ai có phần nấy, huê lợi
đã ăn đồng chia đủ rồi. Tôi khai thác bốn
con ngựa với hai cái xe, vừa chạy vừa cho mướn,
kiếm được bao nhiêu tôi làm mưa làm gió xây xài gì
tùy ý mặc lòng. Nó lãnh phần cái vườn lài với
vườn thơm. Lài bán cho Ba Tàu chợ lớn ướp
trà, thơm đếm cho bạn hàng mấy cái chợ nhỏ.
Huê lợi nhiều nên nó gánh vác phí tổn cơm nước,
chợ búa, trả tiền cho kẻ ăn người làm
trong nhà. Cả hai chưa ai có gia đình nên tình anh em coi mòi
cũng còn đậm đà. Mỗi tháng vài ba lần giúp nó
chở bông ra chợ, coi như bỏ chuyến nhứt,
nhưng không bao giờ tôi cho đó là sự thiệt thòi. Nó
cũng vậy, đi chợ lựa món ngon vật lạ về
cho cả nhà ăn chớ không hà tiện để dành tiền
riêng mà bóp họng bóp hầu người trong nhà.
Ông già đau rề rề hai
năm nay nên nó cũng tốn kém. Lâu lâu kẹt mượn
nó đỡ nhắm mớ, có thì trả không thì thôi, lâu quá
quên luôn. Chừng nó cần hỏi lại, tôi đưa mặt
mo ra cười trừ, nó nhằn nhằn một đôi
câu rồi cũng thôi. Đâu vô đó. Đợi cho ngui
ngui, cần, tôi lại năn nỉ mượn nữa. Anh
em hột máu xẻ đôi, ai chớ tôi biết con Út tình anh
em nó nặng. Trước sau gì tiền cũng xì ra.
Tôi không tin quỷ thần dị đoan nên
khó nói chỗ nầy, nhưng nếu được thì tôi
nói có quỷ thần hai vai chứng giám tôi thương nó lắm
và tôi muốn cứu cái cơ nghiệp nhà mình. Hai cái vườn
bự xộn ở trong đất của đô thành tiền
đất rẻ mạt nên tây tà, chà và ma ní, cắc chú ba
tàu đều ngắm nghé. Trước thì vài ba viên đạn
với mấy trái lựu đạn lép ai đó chôn gần
giếng rồi mạch cho Tổng Nha, lính kín tới
đào lên, ông già chạy hết một mớ tiền. Kế
đó ba bốn người họp bàn quốc sự trong
vườn thơm bị bắt quả tang, ổng chạy
té khói lần nữa, lần nầy thì mang công mang nợ. Rồi
ổng đau nằm liệt giường. Con Út lo đâu
xuể. Tôi phải tính kế. Tiền. Ai giúp gia đình mình
có tiền trả nợ đây? Không có tiền thì thiên hạ
xiết đất đi ra mình không cả đám có ngày. Thấy
trước chuyện đó lẽ nào tôi tọa thị
điềm nhiên? Dòm xuôi dòm ngược chỉ còn một
con đường: nuôi đề. Đại Thế Giới
xổ đề hằng ngày. Mỗi ngày là mỗi hy vọng.
Trong một tương lai thiệt gần khoảng 24 tiếng
đồng hồ mình sẽ không còn là người khổ
sở hiện tại nữa. Thua bữa nay, dời sự
háo hức lại ngày mai. Sự thành công luôn luôn thấy
trước mắt. Ngủ một giấc dậy chạy
xe tới trưa là có thể hi vọng thanh toán hết nợ
nần rồi. Từ nuôi đề đi lần tới
đánh đề, mỗi bữa tôi bàn chiêm bao của mình của
người, tôi bàn đề trên tranh hài hước nhựt
trình “Tiếng Dân”, “Ánh Sáng”, mặn con nào dốc túi mua con
đó để có thêm hi vọng. Tôi chạy theo đề
như người ta đuổi theo hươu nai thỏ
chồn, thấy trước mặt đó tưởng
như chỉ cần đưa tay ra là bắt được
nhưng không bao giờ bắt được. Từ đánh
đề tôi đi lần tới những thứ cờ bạc
ăn thua quanh quẩn giữa những người quen biết
với nhau, móc túi nhau đem về làm của mình. Bài cào, dà
dách, cắt tê, đánh me, cu-di… không có thứ nào chừa,
không có lần nào ai rủ mà tôi có can đảm từ chối.
Càng thua xiểng niểng, càng tuột quần, càng thiếu
nợ như đỉa đeo tôi càng mặn với con bài
lá bạc. Đời sống tôi không bao giờ biết vui
thú, biết rảnh rang, tôi chỉ nghĩ tới làm sao có
thời giờ và tiền bạc để chung vô sòng, chỉ
nghĩ tới cái thú cầm lên lá bài và quơ tiền thiên hạ.
Gỡ. Gỡ. Đó là lý do đẩy tôi vô sòng, đó
cũng là lý do đẩy tôi xuống lỗ thẳm của
những lo lắng muộn phiền triền miên đeo
đẳng. Nợ nần lột bỏ từ từ trong
người tôi những yếu tố để được
kính trọng. Thiên hạ dạ dạ trước mặt rồi
đấm c. sau lưng. Ai cũng nói lén nhún trề tôi là thằng
cờ bạc. Kệ! Biết làm sao hơn. Lỡ rồi.
Thằng Tốt cặp với con Út đâu chừng hai
năm nay, khăng khít không rời như sam cả xóm nầy
ai cũng biết. Trước đây nó thấy tôi còn đứng
dậy giả lả chào hỏi, khúm núm bẽn lẽn, mà
con Út cũng coi bộ sợ sệt, bối rối. Thét rồi
nó tới chà lết quết xảm ở nhà tôi, gặp thì
chỉ chào sơ rồi quay ra tíu ta tíu tít với cái con Út,
coi tôi như không phải người quan trọng trong nhà, như
một kẻ ăn nhờ ở đậu không có quyền
hành gì. Con Út lớn rồi. Tôi đâu nói rầy gì được
nên đành làm lơ. Thằng học cũng giỏi. Năm
ngoái đậu bắc-on, đương học bắc-đơ,
cử chỉ coi bộ chững chạc, nghiêm nghị kiểu
thầy bà chữ nghĩa. Không bao giờ còn muốn kéo dài
vài ba câu nói chuyện để cầu thân với tôi. Trong
trí nó nghĩ làm sao bộ tôi không biết sao? Khi dễ, rẻ
rún. Đó là ảnh hưởng của cây bài lá bạc. Tôi
không còn có cách nào khác hơn là van vái đất nước
ông bà cho tôi trúng cá cặp để tôi từ bỏ hết
thảy các thứ cờ bạc, trở thành người tốt.
Con Út nhu mì, bươn chải. Hai đứa xứng lứa,
vung nồi vừa vặn. Cũng cầu tụi nó xuôi chèo
mát mái. May ra con Út không cần miếng vườn, theo thằng
chồng nhà khá giả của nó. Đó là một lý do nữa
cho tôi có cơ may thoát khỏi gông cùm nợ nần. Nhiều
quá, chúa chổm rồi, tính ra cứ đánh xe ngựa kiểu
nầy, sớm bửng ra đi tối mịt mới về
ngày nầy qua ngày khác trả nợ tới đời con
cũng chỉ mới được một phần nhỏ
thôi. Bản án nghèo khổ tù đày treo lủng lẳng trên
đầu tôi thấy rõ ràng như in.
Vậy tôi phải tính.
Tính vậy mà trời nói không phải vậy.
Con Út khắn khít với thằng đó thì khắn khít mà thờ
ơ thì cũng thờ ơ. Nó thương đất chứ
không thương tiền. Nó có thể bỏ thằng Tốt
chớ không bao giờ bỏ miếng đất. Nó tưới
bông mỗi sáng xăn xái còn hơn con trai hẹn mèo, năm
nầy qua năm khác, không ngày nào lơi nghỉ. Nó nựng
nịu từng nụ bông búp. Nó nhẹ nhàng sợ đau từng
cái bông nở. Nó tưng tiu vun gốc từng cây mỗi chiều.
Hai ba ngày là qua tuốt lá bên vườn thơm. Chủ
vườn đâu ai làm những chuyện tiểu tiết
nầy. Vậy mà nó khoái. Nó có thể ngồi trong vườn
cả một hai giờ đồng hồ, ngó theo từng
con chim xập xòe bay lượn, quan sát từng cánh bướm
tung tăng. Ghi vô trí nhớ chỗ nào đất sụp, chỗ
nào cây đẹt, chỗ nào kiến đùn. Ngày rảnh nó
đi lùng trong mấy luống đất, xăm xoi, ngó ngó.
Không phải chỉ có mấy cái bông lài với mấy trái
thơm mà thôi. Nó còn thuộc đất chỗ nào màu gì,
đất thịt hay đất cát. Chậu nào bể,
nhánh nào khô, luống nào cần phân cần nước. Đất
vườn đã thành da thịt của nó, máu huyết của
nó, cái hồn của nó... Nó thương miếng đất
quá cỡ. Kiểu như nó tính sanh ở đây, sống nhờ
miếng vườn, sẽ chết gởi thịt gởi
xương trong đó, bứng xeo, xoi, cạy gì cũng
không đi, không bỏ. Không phải chuyện huê lợi,
cũng không phải chuyện tiền bạc nhiều ít gì
đó. Đối với tôi thì nhiều chớ đối
với thằng Tốt sau khi tụi nó nên vợ thành chồng
rồi thì ba cái đó đâu thấm tháp gì, như bạc vụn
nằm sót đáy rương thôi, cái kiểu nhà giàu tiền
bạc bỏ quên trong kẹt hóc nào đó không nhớ tới
vậy mà!
Người ta nói đất có quỷ có ma,
sông có Hà Bá thiệt đúng ngay bân. Quỷ ma phải hiểu
là thần đất. Thần đất hớp hồn nó
rồi. Chặt không đứt, bứt không rời. Đi
đâu rồi cũng trở lộn về. Làm gì trong ngày
cũng phải có lúc ra thăm vườn nưng bông, dòm
lá, vuốt nhánh, hít thở chung không khí với cây. Nó như
là một phần tử của vườn. Như là một
cây chúa tu luyện lâu năm nên thần thông biến hóa thành
người luôn luôn thương mến, che chở thần
dân của mình.
Thằng Tốt chữ nghĩa đầy
bụng tối ngày lẽo đẽo kế bên nó nên tôi có
muốn ăn hiếp em cũng hơi khó lòng. Lâu lâu chỉ
mượn được ba món tiển tủn mủn
đỡ ngặt tức thời mà thôi, chứ không giải
quyết được chuyện lâu dài. Nhằm nhò gì? May
quá, ra ngoài ngày, ba thằng đó bắt nó đi Tây. Cả
chục năm sau nó về sẽ về với chức bác
sĩ nếu không lụy một con đầm mắt xanh
mũi lõ nào để bị cột chưn vô đó. Bác
sĩ nào mới ra trường lại chịu lấy vợ
ngang ngang tuổi mình mà bên vợ coi mòi không thế lực
để có thể nhờ cậy trên bước
đường sự nghiệp công danh? Cá một ăn
mười vụ nầy tôi cũng bắt là tụi nó rã đám,
nước ra nước, cái ra cái ngay từ lúc chia tay. Tôi
cứ ẩn nhẫn chờ ngày ông già ra đi theo ông bà chắc
là ăn nhứt, không còn sợ ai cản đản nói nầy
nọ nhức đầu. Lúc đó nằm không cũng sẽ
có tiền trả nợ. Phải lo thân mình trước,
đi theo đường nhân nghĩa mà giựt nợ,
thiên hạ còng đầu mình chớ còng đầu ai?
Lạ lùng là trước đây tôi lo tính kế
cứu miếng đất, bây giờ tôi là người chủ
trương bằng bất cứ giá nào tẩy miếng
đất đi để cứu thân mình. Tất cả chỉ
vì lọt vô cửa đổ bát mà thôi. Đi sai đường
kẹt như vậy đó, phải chi hồi đó tôi
nghĩ cứu bằng con đường khác, lo tu tỉnh
làm ăn chẳng hạn, không chọn đường tắt.
Đường tắt luôn hi vọng làm người anh xứng
đáng của tôi, tắt tương lai dễ thở của
một người chủ vườn có xe ngựa cho
mướn. Và chắc chắn sẽ mang tới cho em tôi
muôn vàn đau khổ, có thể sẽ sứt mẻ tình anh
em ruột thịt nữa không biết chừng. Nhưng mà…
Thôi chuyện đời nó vậy thì phải vậy!
Hay là tôi mê cờ bạc trước đó
mà không tự biết và chuyện cứu vãn miếng đất
chỉ là cái cớ tự trong thâm sâu lòng tôi đưa ra
để che giấu chuyện ham mê bạc bài? Có thể lắm,
biết bao nhiêu chuyện người ta làm ở đời
vì có máu me mà cố bao che nầy nọ bằng những lý
do tốt đẹp. Máu me cờ bạc đi vô máu huyết
tôi như mùi thơm bông lài xuyên vô xương tủy con Út…
Có lý lắm. Không thì tại sao ngay từ nhỏ tôi đã
thích đỏ đen ông già đánh đập trói cột bỏ
đói tôi cũng không chừa?
***
Thằng
Thìn nắm chặt mớ tiền cô Út đưa, nhảy vọt
qua đầu mấy chậu bông vạn thọ, mồng gà
thấp - dải bông dành bán ngày rằm tháng giêng tới – rồi
lững thững đi tắt ngang vườn thơm về
phía chợ Cây Điệp. Cô Út vừa cười
đưa hàm răng hột dưa trắng đẹp
điếng hồn vừa nói ngọt thì biểu lên trời
nó cũng đi. Đây chạy ù ra đó hai bận đi về
một chút chứ mấy, lâu lắc gì. Nhưng nó không chạy
mà cà-rịch, cà-tang mặc dầu trong bụng nôn muốn
quính. Nó lầm bầm tức tối cái con quỷ Cúc mới
tảng sáng đã mắc dịch bỏ đi đâu mất
biệt để cho cổ thấy mặt đặt tên
mình. Con trai người ta gần Tết mà mượn
đi chợ. Thiệt hết đường! Tụi nó
đương gầy sòng bầu cua cá cọp ăn thua sớm
ở chỗ cái giếng nước cãi cọ dậy giặc
coi bộ vui đáo để mà mình không được
chơi. Hột của thằng Hai Chí chết rồi, lắc
bao nhiêu cũng còn trơ trơ, gà nai cứ ra hoài, canh mà
đặt thế nào cũng kiếm được chút
đỉnh ra ăn mì thánh của ba thằng Ngầu lấy
hên ngày mùng một. Đó là chưa kể hễ ra ba con, biểu
nó lắc một cái thế nào cũng dính cựa lại một
hai con, phải thời đặt một cái cụp bứng
cái, chiều mùng một tra bộ đồ mới vô kéo
nhau đi sở thú dòm con gái lấy hên hay ra bồn binh hứng
gió coi tây tà…
Nó càu
nhàu, lầm bầm, tưởng tượng nhưng vẫn
bước đều. Nó biết sức nặng của lời
nói cô Út. Ba nó kỳ khôi không giống ai, đánh con ai giựt
roi cũng không tha, hễ mất cây nầy thì lấy cây
khác thay vậy mà cô xin thì tha liền. Cậu Năm ôn hoàng dịch
lệ vậy, ai nói gì cũng không tin mà cô lên tiếng bào chữa
về vụ nó làm mất nửa tháng tiền cắt cỏ
trả cho dì Tám Sang thì cậu nín khe móc bóp đưa tiền
khác đem trả liền. Cô ít mét đứa nào, mà hễ
cô mắng vốn xa gần thì chắc chắn là đứa
đó lãnh tật. Năm ngoái con Cúc làm gì đó mà cô chỉ
nói một tiếng con nhỏ bị đòn thiếu điều
lòi bản họng.
Chợ
Cây Điệp nhỏ bằng bụm tay mặc dầu,
tưng tửng sáng hăm chín cũng đen nghẹt người
ta. Giống như âm phủ họp chợ ba mươi Tết.
Nó nhớ tới kiểu nói ngộ nghĩnh của ông già
nó mặc dầu nó không biết âm phủ họp chợ ra
sao và tại sao lại đông quá mạng. Trực nhớ lại
chuyện gì đó coi bộ quan trọng, nó quýnh quáng
đưa tay rờ cái túi quần ở ngoài mông, mặt tái
ngắt. Chết cha… Rồi nó cười tủm tỉm. Vậy
mà tưởng mất rồi. Cầm trong tay mà kiếm thiếu
điều muốn xanh mặt. Nôn quýnh nôn quáng nên không khác
gì ốc mượn hồn! Quên đầu quên đuôi ráo
trọi.
Nó
đảo mắt mấy vòng kiếm mấy chị bán trái
cây. Chợ xóm nghèo sập có chủ đâu bao nhiêu, phần
đông thiên hạ đụng đâu ngồi đó nên
người mua phải kiếm kẻ bán. “Mua hai trái dừa
Xiêm với hai trái mãn cầu Xiêm. Lựa mãn cầu nở
gai vừa vừa thôi, đừng có nở tét mới
chưng được tới ngày mùng Ba. Mà gai còn túm quá
cũng đừng lấy. Non quá nó sượng chín không kịp.
Dừa thì lựa trái họ vạt vỏ xanh rồi, búng ở
đầu mà nghe cốc cốc tiếng thanh là vừa
cơm, tiếng nặng đục thì đừng lấy,
cứng cạy đó”. Nó cười tủm tỉm một
mình. Ba người đàn bà ai cũng như nấy, lộn
xộn bực mình bực mẩy, cũng bao nhiêu đó. Thứ
đồ ba cái trái cây cúng rồi cũng ăn, để
dành để để gì đó mà làm như chuyện lên trời,
dặn tới dặn lui, gai nở gai túm, cứng cạy
non cạy nghe phát mệt. Nó tấp vô chỗ một người
đàn bà có mấy trái mãn cầu với một rổ sung
trước mặt, sung từ chùm từ chùm như trái dâu
màu đỏ bầm thỉnh thoảng lác đác vài đốm
hoe hoe coi hơi lạ mắt.
“Mua
giùm đi cậu Ba. Còn có mớ nầy bán đổ bán tháo
về sớm dọn dẹp đón Tết. Trời ơi,
mãn cầu hết xẩy, chín cây đó, gai vừa mới nở.
Tới mùng Bốn thì vừa”. Nó còn đương do dự
chị kia đã bồi thêm: “Nói thiệt hỏng giấu gì
cậu Ba. Thấy cậu coi bộ biết ăn biết
mua nên tôi nói thiệt. Mãn cầu nhà trồng đó. Ông nhà tôi
tháp vô cây bình bát trồng mé rạch nên trái nó ngọt thanh lắm,
không phải chua lòm như trái mãn cầu Xiêm thường
đâu. Thứ nầy người biết ăn kiếm
đỏ con mắt cũng không ra. Phải ở gần rạch
cạn mới có cây bình bát mà còn phải biết tháp nữa…”
Thằng
Thìn không biết nói gì hơn. Nó rờ rờ bóp bóp trái mãn cầu
bự xộn. Da mặc dầu màu xanh lợt không đậm
như mãn cầu Xiêm nó thường thấy nhưng coi bộ
láng láng, mát rượi, gai nở đều, không có chỗ
đèo, không có chỗ nào sâu. Thôi mua đại mua đùa cho
rồi.
Nó cầm
một chùm sung lên xăm xoi tò mò. Mấy con kiến lửa
hay gây sự được dịp bò mau lên tay nó giơ càng
tấn công chí tử những chỗ thịt non. Nó để
chùm sung xuống gãi lia lịa, coi bộ bực mình muốn
dợm cẳng bỏ đi chỗ khác.
Người
đàn bà phủi kiến cho nó, đon đả:
“Cậu
Ba thích chùm sung nầy hả. Bự xộn há. Sung mãn. Cậu
lấy tính rẻ thôi. Có qua có lại.”
Nó nghe
hết mặc dầu bữa chợ đông, tiếng lào
xào lì xì gần muốn lấn át những câu đối thoại
của những người nhỏ nhẹ từ tốn.
Nó không trả lời vì chưa quyết định
được. Cô Út dễ chịu đã đành, tiền
còn đưa hơi dư nữa, nhưng mà cô đâu có dặn
mua sung. Làm lanh mua về chắc cô không rầy la gì đâu,
nhưng cái thằng cha cậu Năm, tánh tình của thằng
chả làm sao biết được? Hay mình tự tung tự
tác thằng chả thế nào cũng nói nầy nọ nọ
kia khó chịu. Lóng nầy coi bộ thằng chả ưa bắt
lỗi bắt phải nhún trề với mình…
Trong
trí nó lởn vởn hai ý mua – không. Nó ngần ngà ngần ngừ.
Mấy bà buôn đầu chợ bán cuối chợ nói ngọt
ngào bao nhiêu thì càng cắt cổ mổ họng người
ta bấy nhiêu. Mật ngọt chết ruồi mà! Đâu có
ai khi không mà tử tế với người lạ quắc
lạ quơ mới gặp ngoài chợ?
Tiếng
người đàn bà tiếp tục dong dài như một
thứ bùa chú tâm lý:
“Tết nhứt ai cũng phải
cúng kiếng. Trái cây là cách ước nguyện cầu xin với
ông bà vậy mà. Đâu có ước gì nhiều đâu? Cầu sung vừa đủ. Sung
mãn cầu vừa đủ. Đủ là được
rồi phải không cậu Ba? Cầu dư mất phước.
Tết ai cũng mua mấy thứ đó mà tôi không đủ
vốn mua dừa Xiêm với lại đu đủ. Nặng
nề bầm dập mà bán không hết ra Giêng kẹt vốn
khó lòng. Tôi chỉ bán bậy bạ quơ quào ba ngày Tết
kiếm chút mớ cho mấy đứa nhỏ ăn bánh mà
thôi. Ngày thường còn phải coi con cái. Mấy cháu còn nhỏ
quá. Cậu Ba mua mấy trái? Hai trái nầy ngon lắm nè. Qua
Tết ăn phải biết! Ngậm mà nghe!”
Nó bắt
cười khan lên tiếng dòn. Chị đàn bà nầy nói
cũng dòn, cũng hay đó nhưng mà nghe bắt tức
cười. Ngậm mà nghe… Ra hè nhả… Người đàn
bà coi bộ thất vọng khi thấy nó thờ ơ không
có vẻ gì muốn mua. Nó thấy tội nghiệp chị
ta và thấy mình ngon lành bảnh tỏn hơn khi nhớ lại
nãy giờ được kêu một điều cậu Ba
hai điều cậu Ba, lại còn được hầu
hạ giải thích đủ điều. Cái tay áo chị
rách teng beng té bẹ vá chùm vá chụp thấy dễ động
lòng. Nó trả giá đại đùa cho có, bất kể mắc
rẻ. Sòng bầu cua lởn vởn trong trí nó “lấy cái
tay ba con nai, hột kê huề, cấm tả” tiếng cãi lộn
om sòm bát nhã của tụi bạn cùng trang lứa trong xóm xóa
bỏ lời dạy “nói thách mua rẻ” nó học được
từ lâu.
Chị
bạn hàng xăn xái giúp nó để hai trái mãng cầu xuống
đáy giỏ, chị chêm tử tế bằng lá chuối
khô, cảm ơn liền miệng khiến nó cảm tưởng
ấm lòng. Cầm giỏ ra đi nó nghĩ mình mua mắc,
thấy tiếc tiếc nhưng nó chỉ nhún vai bước
đi khi ngó lại thấy cái tay áo rách be bét của chị
bán hàng đương xếp đặt mấy trái mãn cầu
còn lại. Nó đi thẳng tới cuối chợ kiếm
dừa Xiêm. Có tiếng đàn bà khóc giãy thảm thiết
đâu đó gần chỗ mấy bà bán thịt. Lại
chuyện hết tiền vì giựt vòng giây hay tráo bài ba lá gì
đây. Nó chen vô. Người đàn bà nước mắt
đầm đìa mặt, cặp mắt đỏ ửng,
nắm vạt áo cãi lẩy với một thằng cha
đàn ông nào đó mặt mày vằn vện coi thiệt có
cô hồn. Thằng cha nầy liếc ngang liếc dọc,
nửa muốn tháo chạy, nửa muốn giải vây bằng
cãi lẩy. Coi bộ mặt tỉnh tuồng của thằng
chả cũng biết tụi đồng đảng chung
quanh cũng khá bộ bàng. Chưa cần đó thôi, nếu
có chuyện gì chúng đã hè nhau vô giúp rồi. Người
thường bị đàn bà nắm áo giữa chợ mấy
ai lại cười hềnh hệch như giả ngộ,
cái hềnh hệch tin tưởng ăn chắc và chờ
đợi coi tình hình biến chuyển cách nào.
Nó lách
mình ra khỏi đám đông. Cũng chuyện đáng giận
đó không hà! Kết cuộc là người đàn bà yếu
đuối không làm sao được đành bù lu bù loa một
hồi rồi bỏ về, chạy đầu trên xóm
dưới quơ quào trám vô chỗ tiền bị mất
mát!
Đáng
đời! Ai biểu đàn bà mà tham lam, chỗ chúng cờ
bạc mà xách đít vô! Chắc cũng loại máu me nữa
rồi. Muốn giở nhà chúng về cất chuồng heo
thì chúng đem bàn thờ ông bà mình ra làm củi chụm. Ruộng vườn bán hết
tra thân vào cùm. Cậu Tốt nói lẩm rẩm vậy mà
có lý. Nó cười tự thưởng mình. Ưa hóng mỏ
nghe người lớn nói chuyện như vậy mà có lý
quá cỡ, nhiều câu hay đáo để. Sao lại có chuyện
đàn bà con gái mà đi đặt bài ba lá được chứ.
Rồi về chạy tiền không ra, bị chồng nó
đập cho một trận nên thân mở con mắt ra thì đã
muộn.
Tiếng
thằng cha đàn ông mầy tao với chị đàn bà làm
thằng Thìn tức tức. Tiếc là lính mã tà tới chậm
lụt quá. Tụi đồng bọn sẽ gỡ để
giải vây cho hắn bây giờ đây. Nó giận mình không lớn
con dềnh dàng để nhảy vô can thiệp, tống cho
thằng cha bợm bãi một đạp té nhào, rồi
đạp lên ngực kiểu Triệu Khuông Dẫn đạp
Hàng Thông biểu nó trả hết tiền lại cho người
đàn bà yếu đuối đáng tội nghiệp kia. Giận
quá mấy thằng điếm! Nó nhớ tới trận
đòn tuần trước vì thua bông vụ vuốt mặt.
Tụi cờ gian bạc lận đáng ghét đã đành, tụi
bày trò lường gạt hay giở thói ăn vùa thua giựt
còn đáng ghét biết bao!
Nó phun
nước miếng khi đi ngang qua mấy sòng bông vụ.
Chun vô đó sẽ thua sạch túi lần nữa. Về nhà
chơi bầu cua cá cọp với tụi Hai Chí vậy mà
chắc ăn hơn. Nó đưa tay rờ thêm lần nữa
túi tiền. Vẫn còn đó. Không suy suyển. Yên bụng.
Nó quên buồn, đánh đòng đưa cái giỏ trái cây
trên tay. Hai trái dừa còn rộng chỗ xích qua xích lại cấn
lên trái mãn cầu thiếu điều giập ra nước
nó cũng không thèm để ý. Chùm trái sung làm tài khôn cộ về
giờ coi cũng tanh bành té bẹ, không còn hình thù đẹp
đẽ như lúc mới mua nữa.
Nó la
cà ở chỗ sập bán bánh mứt mới được
cất lên từ tuần trước. Một thằng nhỏ
trạc tuổi nó liếc mau ngang mặt nó một cái rồi
tiếp tục lớn họng rao hàng mời khách, miệng
kê vô tấm giấy cạt–tông uốn tròn làm ống loa,
đứng gần dội muốn điếc con ráy. “Mua
vô. Mua vô. Bán đổ bán tháo. Bán rước ông táo về
nhà. Thèo lèo cứt chuột ba đồng một ký nè mua vô
mua vô. Lẹ tay thì hết, chậm tay thì còn nè mua vô mua vô”.
Nó nheo mắt với thằng nhỏ rao hàng – cách nó học
từ cậu Năm khi muốn cầu thân hay nhờ vả
ai điều gì – ra cái điều bồ giễu hay lắm,
tui chịu bồ. Thằng kia tủm tỉm cười
như xác nhận hai đứa cùng phe.
Nó bóc
một miếng thèo lèo cắn nghe cái cốc. Đậu phọng
thơm bùi bùi với đường thắng tới mát lịm
lưỡi, dòn rụm. Tiếng rạo rạo trong miệng
chỉ nghe không thôi đã cảm thấy ngon rồi. Mấy
miếng mè đen mè trắng coi bộ cũng hấp dẫn
mời mọc nhưng giữ ý tứ nó không thử thêm nữa.
Nó ra lịnh sau khi dòm qua chỗ mứt bí mứt gừng thấy
giá hơi cao, quá túi tiền riêng:
“Cho
hai trăm cà-ram thèo lèo cứt chuột.”
Nó nhớ
tới con Cúc. Cái con quỷ đó lúc nầy coi bộ học
đòi làm tốt dữ rồi. Đi bán bông mà chải
đầu dầu dừa láng mướt, áo quần ủi
thẳng thớm còn hơn thiên hạ đi ăn tiệc.
Thấy đàn ông con trai đã biết mắc cỡ rồi.
Miệng hay bô bô là kiểu gợi ý cho người ta chú ý.
Thấy bắt ghét.
Tối
nay rủ nó với mấy tụi bạn ra sau chỗ mấy
chậu bông vạn thọ ăn thèo lèo uống nước
trà thì hết xẩy. Cái cười má lún đồng tiền
hiện ra trong trí làm ấm lòng nó. Con nhỏ trổ mã cả
năm nay tay chưn tròn trịa, vú dậy đội lớp
áo lên cao nghệu dòm ngang thấy trơn láng mềm mềm
ra vẻ con gái quá chừng. Đi ra chợ bông thiên hạ
kêu nó bằng cô lia chia, không còn kêu em nhỏ nầy con nhỏ
nọ như năm ngoái nữa.
Thằng
nhỏ bán hàng gói thèo lèo đưa cho thằng Thìn rồi
bóc một trái chà là mời mọc:
“Đâu
cậu thử trái chà là nầy coi. Chà là Nam Dương ngọt
lịm. Mới về hôm qua đó. Mấy bữa nay thiên hạ
kiếm rùm trời mà đâu có.”
Nó có
biết Nam Dương với Bắc Địa là cái khỉ
gì đâu nhưng cũng lủm vô họng, liếm mép rồi
gật gà gật gù:
“Ngon
chớ hả?”
“Dạ
cậu rành quá mà. Cậu thử một trái nữa coi, trái
nào như trái nấy, không lép, không sống, tươm mật
thấy bắt thèm. Phải không? Không thôi cậu nói tôi xạo
lựa trái ngon đưa cho cậu thử.”
“Thôi
được, cân cho nửa ký coi. Cân cho đủ nha.”
Nó hào
sảng vì vừa được kêu bằng cậu vừa
được mời mọc quý trọng. Thằng nầy
mà gặp mình ở sòng bầu cua chém chết nó cũng mầy
tao, cãi cọ, còn khuya mới kêu mình bằng cậu. Ông già
mình ổng ưa chà là lắm. Đem về thế nào ổng
cũng vui. Nó cảm thấy rát rát ở dưới mông, chỗ
bị cho ăn bánh tét nhưn mây tuần lễ trước.
Phải dè, tiền lời bán “cò
bay ngựa chạy” bữa đưa ông táo về trời
bỏ ra mua một ký chà là cho ổng trước khi thua hết
thì đâu có bị trần thân với ổng bữa đó.
Tiếc quá. Quên lửng. Bữa đó con quỷ cái Cúc lại
còn đứng ở ngạch cửa ngó vô coi mình ăn
đòn nữa chứ. Sướng không?
Nó bỏ
hai gói hàng vừa mới mua vô giỏ bước đi.
Chợ
trưa tan từ từ như lớp sương mai tan biến
khi gặp ánh dương. “Chợ ba mươi tết kỳ
lắm, đông như họp chợ âm phủ mà chừng
trời đứng bóng thì tan gần hết, lác đác còn lại
vắng còn hơn chợ ngày thường nữa. Tao nói mầy
để ý coi. Trật mầy lấy cây khện lên đầu
tao đi.” “Ông già có kinh nghiệm thiệt”. Nó nói một
mình.
Nó
đi ra đường cái, băng tắt về nhà, mặt
trời đã hơi hơi đứng bóng, chợ chỉ
còn lèo tèo một vài người nghèo khổ cố nán bán vớt
vát với lại mấy sòng bầu cua, bông vụ, bu đầy
lũ con nít khoái ăn Tết sớm đem tiền cho chúng
ăn, đương cãi lẩy nho nhe như bầy ruồi
xanh bu mấy cái hột xoài ai đó cạp rồi quăng
giữa đường.
***
Tôi đi xăn xái qua nhà thằng
Hai Lé, băng ngang ngã giếng nước. Khu trồng bông vạn
thọ có ánh sáng leo lét, chắc là tụi nhỏ tụ tập
bài bạc gì đây.
Giọng con Cúc, từ đây tới đó
cũng xa xa, tôi nghe tiếng được tiếng mất:
“Ai đi coi cà bơi như thằng cha cậu
Năm.”
Yên lặng một lúc. Nếu tôi đi thẳng
con đường mình đương đi thì không đụng
tụi nó nhưng tiếng xầm xì kế tiếp làm tôi tẽ
về phía đó.
“ Che đèn đi. Thậm cấp, thậm cấp,
chí nguy, chí nguy!”
“ Đừng có mời thằng chả lại
à nghe. Của đâu!”
“Cha! Tao thấy mầy ưa cười
duyên với thằng chả lắm mà.”
“ Xì! Thằng chả đảo nhãn tao chứ
bộ.”
“Im!”
Vậy là dưới mắt tụi nó tôi
không đáng một đồng xu ten. Tụi nó kêu tôi bằng
thằng cha, thằng chả. Tôi đi cà bơ cà bơi, thất
tha thất thểu. Chắc là kết quả của mấy
trận bài trắng đêm mệt mỏi thêm buồn sạch
túi. Tụi nó không muốn nói chuyện với tôi. Tôi để
ý con Cúc. Con nhỏ nầy cũng biết. Mấy thằng
bạn nhỏ xíu mà cũng biết muốn vợ của
nó cũng biết. Con Cúc nói tới tôi bằng một giọng
khi dễ như mắc cỡ vì chuyện tôi thấy nó nhỏ
thó lại có duyên ngầm nên phải lòng thầm hơn mấy
tháng nay.
Điều
khiến tôi sượng trân muốn chết đứng là
nó hay nói huỵch tẹt tôi đảo nhãn nó. Con của
người ăn người làm mà trổ mòi thì coi sao
được. Nó lại mới có mười sáu tuổi
chớ mấy. Ba bốn năm trước còn bận quần
xà lỏn đeo chưn đeo tay tôi chớ đâu. Giờ
nó trổ mã mình đem về làm vợ cũng được.
Cho bận quần áo đẹp đẽ lụa là thì
ăn đứt mấy cô ở chợ nữa là khác. Không chùi để vậy lưu ly. Chùi ra tỏ
rạng khác gì thủy tinh. Cái
môi vảnh vảnh, cặp mắt ướt ướt
đó đem về cầu một ngày đo rún ba bốn lần
mới đã. Nhưng mà phải có bỏ trầu cau
đàng hoàng, cưới hỏi chớ không thể lửa
rơm, mèo chuột.
Tôi còn
tính là con số đề nuôi mười ngày nay mà trúng thì
tôi đưa cho ông Bảy để ông uốn ba tấc
lưỡi Tô Tần giùm. Gì chứ chuyện nói ra nói vô
để dựng vợ gả chồng cho thiên hạ, ông
này ổng thích lắm. Thấy hai đàng hợp nồi hợp
ơ là ổng đốc vô liền. Thêm nữa, tình thầy
trò mà. Hồi nhỏ tôi theo ổng để học mót mấy
câu ca giờ nầy cũng còn xài được khi có tiệc
tùng. Con nhỏ mới lớn, nhà nghèo, chắc cũng không
có gì khó khăn. Cưới rồi lo tu tỉnh làm ăn,
không theo đường cũ “đùng đùng ngựa chạy qua truông, mãn
mê cờ bạc luông tuồng bỏ em”. Vậy mà coi bộ nó chê. Cái thằng Thìn nhỏ
hơn nó hai ba tuổi, cứt mũi đầy, đầu
cổ lúc nào cũng chôm bôm như ổ quạ, tay chưn
dơ hầy, cái mình dài sọc mà còn bị đòn liền
xì vậy mà coi bộ khắn khít với nó. Cha! Thèo lèo cứt
chuột! Cha! Trà quế nữa. Mấy thằng khác có mặt
cho rậm đám, chỉ lo ăn thôi đâu biết bí ẩn
bên trong, vô tình làm nhưng làm nhị cho tụi nó liếc qua
liếc lại, nỉ non đêm vắng tình dài, cười
cợt, mùi mẫn. “Bụi cỏ lau khô sầu ai dã
dượi, thỏ non núp lùm nầy chờ đợi bóng
trăng non.”
Vậy
là tôi đã thua thằng nhỏ nầy. Thua đau đớn
trước khi xáp trận. Tưởng là tiếng cậu
thiên hạ kêu ngọt sớt mỗi ngày là ngon. Tưởng
là con ông chủ vườn có riêng hai cái xe ngựa với bốn
con ngựa là ngon. Ai dè tôi bị xô chỏng gọng. Tụi
nó tình tang trước mặt mình mà mình không dám hó hé.
Tôi
bước tới, sửa giọng tỉnh rụi:
“Chào mấy
đứa! Ăn Tết sớm vui hé!”
Hết
cả bọn làm thinh, một lúc sau con Cúc lên tiếng:
“ Tụi
nầy tính ăn thèo lèo cứt chuột tán dóc chờ
năm mới.”
Tôi giễu
để làm thân:
“Nói
chuyện đời cho vui chớ tán dóc khỉ khô gì.”
“Con
Cúc nói chuyện đời còn tụi tôi hết thảy
đều tán dóc cho vui chớ biết gì chuyện đời
mà nói cậu Năm?”
Tôi vừa
làm người lớn vừa làm thân:
“ Mấy
đứa tiếp tục ăn uống đi. Cứ tự
nhiên.”
Đêm
29, đèn trứng vịt của bác Bảy ở ngoài trời
coi bộ không kham, tôi nói:
“
Đèn lu quá he! Thìn sao mầy không vô lấy cái đèn dầu
trong phòng tao đó cho nó sáng?”
Thằng
Thìn câu mâu xa gần theo kiểu ông già tía nó:
“ Có
trăng kia đèn nầy mới lu vậy chớ. Cậu
cho trăng luồn đám mây thì đèn nầy cũng tỏ
ác.”
Thằng
lừng quá, nói kiểu lưỡng ước khó bắt bẻ
nhưng mà tôi hiểu, đêm hăm chín làm gì có trăng? Con
Cúc lớn họng chọt ngang như để cứu bồ:
“Sao tụi
bây tham ăn quá vậy, không đứa nào mời cậu
Năm hết? Ê hề nè đâu sợ hết.”
Hai ba
đứa cùng nhao nhao:
“Cậu
Năm là người lớn đâu thèm ăn mấy món nầy
của tụi mình. Khỏi mời.”
“ Cúc,
mầy ‘tội nghiệp’ thì mời đi.”
Tôi ngó
con Cúc làm thinh, ‘dầu đói
giả no, dầu không giả dại đặng dò ý em’. Con nhỏ xí dài, không biết bất
bình vì nguyên câu nói hay vì không thèm mời. Tôi tự nhiên rót cho
mình một ly nước.
“ Uống
ly nước rồi tôi đi, không ăn ngọt đâu.”
Tôi lần
khân vì muốn ngó mặt con Cúc cho đã. Dưới ánh
đèn chao chao cặp má bánh bầu của nó càng thêm mờ ảo.
Môi nó tươi ướt thấy muốn cắn. Vậy
mà nó cứ bơ bơ cười nói với mấy đứa
kia coi như không có tôi ở đây. Phải nó cười với
tôi một cái chắc thế nào đêm nay tôi cũng gom sòng.
Vậy mà… ‘Tiếc công se chỉ uốn cần, chỉ se
chưa đặng cá lần ra khơi.’ Tôi hớp đại
đùa ly nước để xuống, tính nói lời từ
giã.
Một đứa nào đó hình như là em
thằng Hai Chí, lúc sau nầy tụi lóc cóc tấn lên tôi biết
mặt mà không nhớ hết tên, lên tiếng:
“ Ê Cúc! Bữa hổm mầy đi mua thuốc
dưỡng thai Nhành Mai chi vậy, bộ má mầy sắp
có em hả?”
Con nhỏ xảnh xẹ:
“ Mua cho chị mầy. Chị mầy lùi tôm
thịt, có con chuột Tàu trong bụng.”
Thằng kia coi mòi không ngán, nó dương
Đông kích Tây:
“ Hay là mầy mua cho bà Tư Lé (bà già nầy
thường phụ với con Cúc cắt cỏ cho tôi để
kiếm tiền thêm).”
“Đừng nói xàm, bả già rồi, mua ba
thứ đó để tế tổ mầy chứ làm gì?”
“Vậy thì mua cho mầy rồi. Có cậu
Năm đây luôn nè, chịu thiệt đi tụi tao tha.”
Tôi xây xẩm thiệt tình, tụi nhỏ
leo lên đầu cha tôi ỉa xuống khi nói câu đó. Tôi lạnh
lùng:
“Tôi không phải là người để mấy
em giỡn nha, đừng được mợi làm tới.”
Tôi buồn thiu luồn trong mấy luống
bông lài băng qua đường. Mình mẩy không rêm mà nghe
bần thần khó chịu như muốn bịnh ngang
xương. Rõ ràng. Mít đặc cách mấy cũng biết
huống gì tôi, tôi rành sáu câu tụi nó quá. Tụi nó nói mò mà
ám chỉ tôi khoái hay tằng tịu với con Cúc. Chưa
ăn mà chịu tiếng oan rồi. Cái con quỷ đó biết
đâu được. Thứ đồ con gái mới lớn
rượn đực dàng trời. Bộ xà nẹo của
nó với thằng Thìn mà không có “lang vân” thì cũng như lên
võng không đưa lên đu không nhún. Thôi bỏ, kiếm mối
khác, xa xa vậy mà khỏi bị biết tẩy khó lòng.
Thìn tao nhường mầy đó. Chén kiểu ai thèm giành chỗ
với chén đá. Cúc ơi, “bần
gie đơm đớm đậu sáng ngời, lỡ duyên
tại bậu trách trời sao nên”. Nhà thằng Hai Chí treo đèn măng-xông sáng trưng
đằng xa ngó cũng thấy, khác với ngày không có tay
nhà nó đốt đèn con cóc lù mù lờ mờ như ma
trơi. Chắc thế nào đêm nay cũng thua không còn tấm
da mẹ đẻ. Ra ngõ gặp gái là một. Người
tình ngó lơ là hai. Thiên hạ xỏ xiên là ba. Vậy mà sao
tôi cũng vẫn xâm xâm đi tới vựa củi chớ?
Thần cờ bạc linh thiệt. Lậm vô rồi không biết
có ngõ bước ra. Đó là câu nói tôi nói với mình không biết
bao nhiêu lần sau mỗi trận bạc bài.
***
Cô
Út nhẹ nhàng giũ mấy giọt nước sau cùng còn
sót lại trên từng trái cây khi từ tốn xếp thứ
tự trên cái dĩa quả tử. Cái dĩa lớn xộn
gần bằng cái mâm thau mà cũng còn coi bộ chật. Ba
nải chuối sứ còn xanh mởn để dưới
chót quây vòng gần hết dĩa, còn chỗ trống cho trái
dừa… Rồi mấy thứ khác chất chồng lên theo:
cam, quít, mận, bưởi…
Cô
chăm chú, cân nhắc kỹ từng chỗ cho mỗi trái
như khi cầm vòi tưới nước mỗi sớm
mai. Nặng tay, bông rụng, ẩu tả gập ghềnh,
cây trái đổ lăn cù từ trên bàn thờ xuống. Nhà
không có con nít mặ dầu, nhưng mà cô biết tánh anh mình,
ngang tàng, ăn đồ trên bàn thờ là thường. Ảnh
bóc một trái quít hay một trái cam lủng một lỗ
trên dĩa quả tử thì cũng được đi, có
khi cả đống cây trái theo nhau lăn xuống.
Cô nói
với má con Cúc đương đứng xớ rớ
đợi chủ sai biểu sau khi đã quét láng bộ ngựa.
“Dì Tám
coi được không? Nhờ thằng Thìn hồi sáng
đi chợ mua về hai chùm sung nên màu sắc cũng nhịp
nhàng mà lại thêm ý nghĩa. Hai cái dĩa bàn thang đựng
trái cây còn không hết. Tôi tính chiết ra một mớ đựng
đỡ trên cái dĩa chưng để tối nay cúng trời
ở ngoài bàn ông thiên. Ba mươi rồi. Dì thấy tôi
tính có phải không, nải chuối sứ nầy cuối
quài nên nhỏ để cúng bàn ông thiên cho rộng chỗ.”
“Năm
nay chắc xóm Vườn Lài mình làm ăn khá. Cây sung chỗ
hẻm đâm ra miệt trường mù trổ trái quá sá cỡ,
che hết thân cây, phủ kín gốc cây. Dòng sung trái trổ
trên thân, biết là vậy rồi mà dòm cũng còn thấy lạ.”
“Cô Út nói
tôi mới nhớ, tháng trước đi qua đó, dòm sung rụng
đầy sân, ước phải chi gần Tết xin ông
chủ mấy chùm về chưng ba ngày Tết.”
Cô
đưa trái dừa cho người giúp việc.
“Dì Tám
đem ra sau vạt mặt giùm tôi trái dừa nầy. Để
nguyên vậy cúng ông bà không hưởng được. Anh
Năm giống hịt như ông già tôi. Nhờ chút mà ảnh
cứ cãi nói là cúng thì cúng vậy chứ ông bà nào ăn. Vạt
lớp vỏ cứng chừa lại lớp cái để
che không thôi để trên bàn thờ ngã đổ.”
Cô
cười nhẹ:
“Sự
vong như sự tồn. Người chết cũng
như người sống, mình ăn uống được
thì ông bà mình ăn uống được.”
Dì Tám
cười cười đi ra nhà sau. Tánh đơn giản
dì không thể quả quyết ai đúng ai sai, vạt mặt
thì vạt, không vạt thì thôi, chưa bao giờ dì nghĩ tới
chuyện ông bà có hưởng hay không hưởng.
Đưa trái dừa đã vạt xong xuôi cho cô chủ dì
nói như một nhận xét:
“Nhà chỉ
còn có cô với cậu Năm mà coi bộ ý kiến anh em chỏi
như mặt trời mặt trăng.”
Cô Út
chùi chùi trái quít đương cầm trên tay lay vô cái
khăn lông, trả lời hiền từ:
“Ừ!
Tánh ảnh vậy đó. Nói lấy được, bất
kể. Ai mà không biết thì tức chết. Mà biết tánh ảnh
thì thôi bỏ qua. Cãi lẫy ích lợi gì đâu? Chín bỏ
làm mười cho êm. Máu huyết không, ai vô đó?”
“Cô
được nết quá nên mới nói vậy chớ cậu
nói nhiều câu tôi là kẻ ăn người làm mà nghe còn muốn
nổi máu sản hậu lên”. Dì ngó chung quanh, lấm lét:
“Đàn ông con trai gì mà… Hỏng bằng cái móng chưn cậu
Tốt. Người ta nho nhã, biết phải quấy. Tiếng
Tây tiếng u bật rót rót…”
Cô Út
để trái quít chót lên dĩa, bước thụt lui một
bước ngắm nghía xâm xoi công trình của mình rồi
chuyển đề tài:
“Dì Tám
nghĩ sao? Hay là tôi để mấy trái quít phía bên nầy
đẹp hơn?”
Người
đàn bà cười cười bối rối:
“Cô Út
nhè tôi người mù mà hỏi đường. Tôi thấy
xếp sao cũng đẹp hết. Cô có hoa tay chớ
đưa tôi, tôi rị mọ cầu tới mai mới rồi
mà còn dị hợm lắm. Tôi có thử làm rồi.”
Dì Tám
ra sau nhà bếp, lấy cây chổi trở ra phía ngạch cửa
quét nhà. Quét ngược từ ngoài cửa vô trong, gom rác lại
thành đống ở khạp gạo, khi nghe tiếng cô Út
kêu nhờ giúp một tay.
“Biết
tánh cô kiêng cữ tôi đâu dám quét nhà ra ngoài. Phải quét trở
vô.”
“Có
kiêng có lành. Cãi ông bà đâu ích lợi gì. Cô đổi giọng
vui vui, “Dì Tám coi nè, thằng Thìn bị bà nào ngoài chợ gạt
bán cho hai trái mãn cầu Xiêm tháp bình bát mà bả nói ngọt
thanh. Thứ nầy tốt mã nhưng rã đám. Lạt
nhách, rẻ mạt.”
Người
đàn bà mỉm cười không ý kiến. Hai người
hè hụi khiêng dĩa trái cây bự xộn để lên bàn
thờ. Cậu Năm ngoài cửa xăm xăm bước
vô.
“Ha!
Đẹp dữ ha. Hai người có hoa tay dữ. Để
trên bàn thờ dầu ông bà không muốn ăn cũng bắt
thèm.”
Cậu
bóc một trái quít ngon nhứt. Hai ba trái để gá ngỡi
lên trên lăn đùn xuống. Cậu chụp lượm
lia lịa rồi đưa lại cho em, cười cầu
tài:
“Xin lỗi
nhe. Bóc rồi mới nhớ nhà chưa cúng. Thôi coi như
khi đi chợ không có mua trái nầy đi.”
Dì Tám
Sanh dọn lẹ xung quanh gọn ghẽ rồi bưng mớ
dĩa dư ra ngoài sau bếp, thúc thúc làm chuyện gì đó
rồi ở dưới đó luôn. Thấy cô Út làm thinh, cậu
Năm đánh tan không khí đông đặc giận hờn.
“Cúng
kiếng là để tỏ bày lòng thành với người
đã khuất mặt. Cúng kiếng giỗ quảy là để
nói với bà con chòm xóm chung quanh là mình cũng không đến
nỗi bỏ phế hương tàn khói lạnh bàn thờ
ông bà chớ ông bà nào bắt mình phải cúng mấy trái quít,
mấy trái cam đâu. Cô Út thấy phải không?”
Cô Út
cười gượng:
“Mấy
chuyện đó thì khó nói lắm, làm sao biết trúng thật.
Mà bữa nay sao anh về sớm quá vậy. Bộ ba
mươi chạy không có khách sao?”
“Trời
chưa đứng bóng thiên hạ đã rút vô nhà hết.
Đâu có ai mua bán gì nữa. Út… cho tao mượn 500 ăn Tết
coi. Năm nay tao không có cắc nào hết. Xe cộ ế
quá. Lại phải đóng 2, 3 cái hụi chết.”
“Anh giỡn
hoài. Tiền đâu em có. Bán hết lứa bông rằm tháng
chạp, bán luôn lứa bông Tết mới được
800 trả tiền công, tiền phân, tiền chạy thuốc
cho tía, tiền nợ tía mượn hồi đó, còn chút
xây xài trong nhà. Tiền đâu mà đưa cho anh 500?”
“Tao
mượn rồi tao trả chớ bộ.”
“Anh trả.
Hồi đó tới giờ anh trả mưa mứa, đồng
lặn đồng mọc, đưa anh bao nhiêu tiền nát
bét hết trơn lấy lại nguyên được đâu.
Hai năm nay đâu để dành được cắc
nào. Nhiều khi tới tháng còn không có tiền trả cho ông
Bảy với dì Tám. Người ta kẻ ăn người
làm mà mình thiếu, mắc cỡ thấy mồ.”
“Mầy
dài dòng quá. Bỏ cái chuyện người ăn người
làm qua một bên đi. Có, đưa tao mượn đỡ
300 ra ngoài ngày tao rán chạy xe thêm tao trả góp. Một tháng
thì hết chớ gì. Tao nói danh dự đó.”
“Còn có
trăm rưởi. Anh lấy thì lấy. Không thì thôi. Anh
đem bán tui cũng không có xu nào nữa đâu.”
Im lặng
ngột ngạt đâu chừng mấy tíc tắc đồng
hồ. Rồi có tiếng cười nịnh cà-hệch, cà
hạc, giả lả, tiếng thở ra, tiếng đếm
tiền nho nhỏ giọng nghẹt mũi, tiếng tiền
mới xột xoạt. Khuôn hình người đàn bà ngồi
thẳng lưng trên cái ghế bành tượng, hai bàn tay
để trên chỗ gác tay, xòe đủ mười ngón với
ba cái cà rá cẩm thạch, mấy sợi dây chuyền dài phủ
gần hết bờ ngực, có khuôn mặt thiệt
phước hậu ở giữa bàn thờ dường
như nhăn mặt khó chịu và hình như có nước
mắt long lanh hoen mi.
***
Ở đời có nhiều
chuyện tức trào máu họng, bởi vậy tôi hiểu
như đi guốc trong bụng mấy ông tướng
trong truyện Tàu tại sao lại tức ói máu ra cả chậu
rồi ngủm củ tỏi. Nhiều khi tôi cũng muốn
được như ông Châu Do thiên sanh Do hà sanh Lượng
ọc ra một thau rồi thẳng cẳng đi luôn cho khỏe.
Khỏi khổ. Khỏi lo. Khỏi nhục. Ai đời rớ
đâu thua đó, làm gì cũng hư cũng trật. Ông già
tía ổng la ổng khi dễ thì cũng được
đi. Con em gái nó làm ăn chắt mót củi lục nên có nhắm
mớ để dành khi túng ngặt tôi mượn phần
nhiều là hổng cần trả đúng ngày, cũng không cần
trả đủ, nên nó cằn nhắn cửi nhửi thì
cũng được đi. Tới mấy người ở
đợ là kẻ ăn người làm trong nhà mà nhiều
khi họ cũng khi dễ ra mặt. Thứ đồ ở
đợ, lọt vô nhà khác chủ địt một cái
cũng phải dạ vậy mà họ gặp tôi họ bét
bét ra cái chỗ khác. Biểu cái gì cũng dạ dạ, không
thèm cãi, nhưng mà nhiều khi “đấm đách” làm. Hỏi tới thì đổ thừa ông, đổ
thừa cô. Hỏng hỏi tới thì làm thinh cho qua hôm.
Đời
nghèo nó chó vậy đó. Biết vậy muốn sửa mà trời
cũng hỏng cho sửa. tính trong bụng ngày Tết này
cho họ mỗi người chừng độ 5 đồng
để lấy tình cảm mà hồi tối thua hết tiền
dành dụm cả tháng chạy xe ngựa. Đã vậy còn
thua thêm để phải ký chồng vô giấy nợ. Cho tới
bây giờ thì để đó cho có nhưng mà nhiều quá
cũng ngại. Biết đâu chừng họ trở quẻ.
Với lại, thiếu nợ đánh hết sướng
nhiều khi ăn bao nhiêu họ trừ mẹ vô tiền nợ.
Đánh buồn ngủ như đánh bài ăn ừ. Mà bỏ
thì hổng được. Ngứa tay ngứa chưn phải
tới sòng. Sâu cờ bạc còn hơn sâu rượu, còn
hơn ghiền á phiện. Sòng mở mà mình không tới thì
sâu nó cũng hành khó chịu. Làm gì cũng không yên bụng. Bồi
hồi bối rối trong lòng như đánh cờ vây,
như đàn bà bị mắc đàng dưới. Ngẩn
ngẩn ngơ ngơ. Thêm ý muốn gỡ cũng thúc kéo
mình tới sòng bài nữa. Như hồi chiều hôm qua, mới
đánh xe ngựa về. Tháo ách ngựa ra chưa kịp
làm gì hết con của thằng Hai Lé chủ sòng “cu-di” ở vựa
củi kế bên chùa Hưng Long đã nháy nhó là tối nay có
mấy người ở Chợ Rẫy tới gầy
sòng. Vậy là khỏi quần ngựa, cứ bỏ lúng ngựa
vô chuồng, vậy là khỏi kiểm soát coi con Cúc cắt
cỏ đủ không, nước nó đổ đầy
không, tôi chạy đi xối mình mẩy ba gáo cho có tiếng
là tắm rồi lên nhà trên tính và ba hột mau mau, uống
nước ào ào rồi chạy đi chơi.
Vậy
mà trong lúc ăn tôi như mất hồn. Ông Bảy nói gì tôi
cũng không biết. Con Út nó hỏi gì tôi đâu có nghe.
Dường như nó nhờ tôi ăn xong vạt mặt mấy
trái dừa cho nó để chừng nào rảnh nó sắp lên
hai cái dĩa bàn thang để trên bàn thờ cúng ông bà
đêm ba mươi. Tôi từ chối bằng lý lẽ gì
đó nói vậy cho có vậy mà. Để ăn xong ba hột
là vọt liền. Thời giờ là vàng bạc mà.
Dòm cái
bàn tay có ba cọng gân nổi lên tròn như ba sợi đậu
đũa của ông Bảy đưa đưa chậm chậm
gắp mấy cái bông bí luộc, tôi mường tượng
thấy ngón tay trỏ của thằng Hai Lé đưa chầm
chậm run run lâu lâu lại ngừng lên một con nào đó
của dãi tướng sĩ tượng, xe pháo ngựa
xanh, đỏ. Nhớ tới chuyện đánh cu-di tôi
như mở cờ trong bụng. Muốn đánh ăn thì
phải biết bắt tẩy cái thằng xổ. Tôi thì tôi
biết thóp của thằng Hai Lé. Tay nó run run trên con nào chém
cha tôi cũng không đặt trên đó mà đặt con cách
đằng xa. Nó mà lướt qua mau con nào thì bắn súng
cái đùng tôi cũng đặt con đó. Tôi bắt nét mặt
nó tài lắm. Khi một chút thịt trên mặt dưới
mắt trái nó giựt giựt thường là nó xổ lại
con mới xổ cách đó một hai bàn trước.
Biết
tẩy nó, tôi ăn nhiều trận quá xá thợ mộc.
Đặt một trúng mười mà tôi cứ trúng lia chia.
Vậy mà cuối cùng tôi thường bị cháy túi vì gần
sáng tụi nó đổi qua “đánh
me”. Me của nhà thằng nầy
nhiều khi kỳ nghĩ không ra. Dám đi một mạch tới
cả chục lần liền. Hồi hôm tôi cháy túi là vì nó
đi 4 lần rền. Lần đầu cửa yêu đi 5
lần, độ vài bàn nó sang túc 6 lần rồi trở lại
yêu 11 lần. Cái điệu nầy có đứa tán gia bại
sản chớ hỏng phải chơi. Gần sáng nó đi
cửa lượng 10 lần. Nhà cái gom hết, ai cũng
thua đậm không còn một xu dính túi. Cay quá tôi ỉ ôi mượn
thêm 300 cũng hết. lúc kiểng nhà thờ Chợ Quán
đổ thì rã sòng ai nấy thất thểu ra về.
Sao mai
đã mọc sáng ở hướng Đông, tôi lội trong đám
bông của con Út mà đi xiểng niểng, cặp chưn
như làm bằng giấy, yếu thiếu điều muốn
ngã trên đống phân ngựa nó ủ rơm trên mặt
để dành. Phải ngủ một giấc rồi tới
đâu tới. Mệt quá rồi. Thức trọn đêm tim
đập thình thình. Sương đêm giáp Tết lạnh
thiệt. tôi rùng mình mấy cái, nhảy mũi liên tu trước
khi kịp chui mình vô mền trùm tấn đầu cổ kín
mít. Phải ngủ một giấc thiệt lâu mới
được. Thức đêm kiểu này mình đồng
da sắt cũng ngã… nằm xuống vun vai một cái thì mí
mắt kéo xuống không còn biết gì nữa. Đâu đó một
giấc, ngó ra thấy trưa trờ trưa trật nên tung
mền thức dậy. Qua bên nhà giữa coi chuyện Tết
nhứt tới đâu rồi. Nếu thấy thuận tiện
khảo con Út một mớ để gỡ. Cậu không có
tiền cậu nằm nhà làm sao chịu được. Cả
hai năm nay ông già bịnh nằm trong nhà trong, mọi chuyện
con Út lo hết. Tôi về cơm nước có sẵn, quần
áo bỏ ra cho dì Tám hay con Cúc giặt giùm, tới tháng cho thêm
nhắm mớ, lúc nào thua quá thì làm lơ. Họ thì không mở
miệng kêu rêu gì nhưng trong bụng chắc cũng không
ưa gì.
Chuyện
đó càng rõ ràng hơn khi qua nhà thấy dì Tám Sang má con Cúc
đương dương môi múa mỏ nói xấu tôi đủ
điều nào là nhiều khi nghe tôi nói dì muốn nổi máu
hậu sản. Tôi chọc giận thiên hạ dữ vậy
sao? Hay là tại tôi không có tiền cho? Dì khen con Út được
nết, ý muốn nói tôi mất nết, tầm bậy, tầm
bạ cờ bạc thâu đêm suốt sáng, tiền vô cửa
trước ra cửa sau, không biết giữ, không lo tu tỉnh
làm ăn… Vậy mới biết thiên hạ sợ trước
mặt, đấm c. sau lưng, làm bộ nể nể, cậu
cậu, nói vuốt đuôi theo mình, chứ để họ
tự do nói điều họ nghĩ thì còn lâu! Vậy mới
biết lòng người. Nghe dì nói vậy là tôi biết chuyện
tình duyên của tôi trắc trở rồi. Bà già vợ nói xấu
chàng rể ghe tàu chở không hết kiểu này thì còn lâu bả
mới chịu gả con. Dầu cho con Cúc đành mà bả
không đành thì cũng như gáo nước nhỏ tưới
lửa thành đâu tan. Thôi chuyện con Cúc để qua một
bên. Không có kí lô cờ-ram nào với bả thì rán chịu,
mình làm chứ ai vô đó. Mà nó có sắc nước
hương trời gì đâu. Nước da bánh ích. Tại
nó mới lớn nên coi ngồ ngộ vậy chớ cỡ
nó ngoài chợ hằng hà. Thiếu gì. Muốn cao hơn, trắng
trẻo lịch sự đứa hơn thì không có chớ cỡ
nó, ghe tàu!
Chuyện
cần bây giờ là có tiền để đi gỡ trận
hồi hôm. Mấy chuyện khác để qua một bên.
Tính sau. Phải khôn mới được. Phải nhịn
nhục. Bất bình cũng cứ dửng
dưng, cũng đừng liếc xéo cũng đừng
cười khi. Tôi nói trong bụng
như vậy nên nghe hết mà tôi làm bộ giả đò
như không nghe, tính tuồng bóc một trái quít ăn.
Tôi biết
thế nào nó cũng la vì chưa cúng ăn vậy không nên. Vậy
mà trật lất, nó làm thinh, tỉnh rụi. Bà già vợ
Tám Sang rút dù ra ngoài sau. Tôi nói bậy bạ câu gì đó cho có
lần nữa. Nó cũng làm thinh như câm. Tôi thất vọng,
điệu này làm sao mình mở miệng mượn tiền.
May quá nó hỏi sao tôi đi xe về sớm.
Tôi nói
láo trơn như mỡ là bữa ba mươi thiên hạ
tan chợ sớm, chạy đâu có tiền. Rồi tôi mượn
tiền nó. Phải nói gãy lưỡng tiền mới lòi.
Khi đưa tiền, cái bộ mặt của nó như bún
thiu, tôi thấy cũng bất nhẫn. Mà ký quá, cái hình của
bà già tôi trên bàn thờ thường ngày tôi đi đâu bả
cũng ngó theo, tôi quen rồi không có gì đáng chú ý. Dân xe ngựa
mà đâu có yếu tim, nhưng bữa nay hồi tôi cầm
tới số tiền, tôi nghe như ai đổ nước
đá vô sóng lưng, tôi rùng mình ớn lạnh ngó lên bàn thờ,
như là bả nhăn mặt rầy tôi hồi nhỏ, một
giây thôi, tôi mọc ốc cùng mình, hai cặp mắt tấm
hình bả rướm nước mắt như mấy người
đàn bà bị chồng bỏ, gặp tai nạn dàng trời,
hay có con hoang đàng hư hỏng, chửi cha mắng mẹ
gì đó. Tôi còn mài mại nghe như có tiếng thở dài.
Quen lắm. Không thể lầm được. Tiếng thở
dài nhẹ, nghe buồn thúi ruột. Tiếng thở dài 5
năm trước mỗi khi nghe là bả biểu gì tôi
cũng làm. Năm năm nay không còn được nghe nữa.
vậy mà lúc đó tôi nghe phát ra từ trên bàn thờ, sau tấm
khuôn hình, tôi cảm thấy mình tội lỗi ngút đầu.
Thua thiếu tứ giăng đến lúc nào đó không còn
vùg vẫy nổi tôi sẽ làm bậy, sẽ lụn bại,
không ra gì, lết bằng mo, bò bằng mủng, đầu
đường xó chợ ăn mày ăn xin. Má tôi rầy
đó… Tôi móc tiền ra tính trả lại con Út rồi tu tỉnh
làm ăn nhưng nghĩ sao đó tôi bỏ vô túi lại.
Chơi cho đã cái ngày Tết này rồi nghỉ cũng
được. Tôi đi thẳng qua nhà thằng Hai Lé.
***
Cô Út cặp mắt sâu quắm, đầu
chụp cái khăn rằn sọc đỏ đã xuống
màu lợt lạt, để ló ra ngoài trước lúa túa mấy
sợi tóc con coi bộ cũng đã bớt đen, từ tờ
mờ sáng tới giờ thẫn thờ đi xuống
đi lên khu vườn cũ. Sao mà lạ quắc lạ
quơ. Sao mà nghe lạnh lẽo không còn cái ấm cúng ngày
xưa mỗi sáng tưới bông. Không còn nghe cái thân thiện
nao nao của những ngày lội trong vườn thơm,
tước lá hay chặt thơm với chú Bảy đếm
cho thiên hạ chở đầy xe cá này sang xe cá kia ra chợ
Bình Tây.
Khác cảnh đã đành, còn nghe khác không khí
nữa. Nghe ngộp ngộp như không đủ không khí
để thở. Mắt đỏ hoe như muốn khóc.
Cô lạ lùng ngó con đường bây giờ đã tráng nhựa
thẳng thớm hơn, bóng láng hơn ngày trước bội
phần. Hồi nào hàng dầu bên đường còn nhỏ
xíu, trồng ở trong lồng, được cột dựa
vô một miếng ván nhỏ mới đứng vững
được, bây giờ cây đã lớn xộn, bự
tròm trèm bằng thân hình một người lớn đương
ngóng ngọn lên trời như giỡn hớt với không
trung. Chỗ vườn thơm, nhà cửa chen lấn thiếu
điều cỡi lên lưng nhau, lại có một con
đường trải đá đỏ xuyên ngang, đi thẳng
vô chỗ đám mà hồi trước thằng Thìn ưa quần
lội bắt dế sau những buổi mưa tạnh hột.
Khu vườn lại còn khó định chỗ
hơn. Mấy cái nhà lụp xụp thì còn đó, cái nhà lầu
cây tiệm may của vợ chồng ông người Bắc
thì cũng còn nguyên, chỉ khác là tấm bảng tiệm may
đã hạ xuống, mà cái vườn kế bên thì biến
mất tăm mất tích. Bù vô là một dải nhà lầu
ba từng dài dọc có tường cao bao bọc chung quanh.
Cái cửa sắt chềnh dềnh khép kín mà hình như là có
lính gác nữa. Nói chung, nhà cửa ở đây coi vừa phảng
phất hồi đó vừa coi bộ khá khẳm hơn.
Người đi đường như đông đúc
hơn mà ngóng mỏi mắt không thấy mặt nào quen. Biết
chắc như một với một là hai đi từ Ngã
Sáu đi qua khỏi chùa độ năm trăm thước,
bên kia đường là khu vườn lài cũ của
mình, còn bên này đường là khu vườn thơm mà sao
cứ ngại ngại nghi nghi không dám đề quyết.
Cô ngó chăm chăm dãi nhà lầu một đỗi hèn lâu
như để trả lời mấy câu hỏi có thể
nhảy ra trong đầu rồi ngó xuống đất thở
dài.
Dãi nhà lầu tấp nập khách ra vô ồn
ào náo nhiệt tiếng cười thương nữ ngó xuống
người chủ đất cũ như thở dài
như chọc tức. Kế bên cửa sắt, giơ
đầu dưới trời nắng chang chang một
người đàn ông một mắt ngồi trước một
thùng thuốc lá lẻ, trên mặt thùng mấy bao thuốc
không làm mẫu chịu đựng nắng lâu ngày đã
đổi màu nhợt nhạt nhăn nhó, coi cũ mèm nghèo
nàn.
Người đàn ông tật nguyền ngó
cô Út chăm bẳm một hồi như ngờ ngợ,
như muốn kêu nói một điều gì nhưng rồi
nuốt nước miếng ngó xuống cái chưn mặt
của mình, đưa tay gãi gãi một mụt ghẻ hòm lớn
đại được đắp bằng hột lịch
đã khô đang đổi sanh màu đỏ sậm.
Văng vẳng trong một căn phòng nào
đó cao tuốt trên lầu một giọng đàn bà trẻ,
ca bài ca cải cách kiểu giang hồ, giọng ca bà chả
bà chẹt thiệt nhà quê khó cảm.
Cô
mười cô chín hai cô anh muốn cô nào,
Có muốn dắt đi đừng
cho má cổ hay.
Hai người đàn ông cặp kè vai nghiêng
ngả bước ra, người nầy lầu bầu với
người kia:
“Mẹ! Tao đâu thèm dắt một, tao dắt
hết, có tiền mua tiên cũng được, nhưng mà
hồi đó kìa. Bây giờ vô đây thiếu gì con ngon. Họ
tuyển ở đâu mà gái chiếng không, lần nào vô
đây hú hí rồi về cũng muốn thôi vợ. Hèn chi hồi
đó nghe tin mở Bình Khang thiên hạ ngóng cổ cò chờ
hoài…”
Ai đó giọng sành sỏi:
“Hồi đó chỗ nầy là xóm Vườn
Lài. Đi ngang qua mùi lài thơm phức. Bên kia đường
là cái vườn thơm. Thơm còn ngọt hơn thơm Bến
Lức. Của một chủ. Họ ngu bỏ mẹ, trồng
mấy thứ mắc dịch đó huê lợi đâu có bao
nhiêu. Chủ mới khôn hơn nhiều. Làm ăn ba cái vụ
nầy tiền vô như nước. Thời buổi nào lại
không có người muốn nghe tiếng đàn réo rắt của
ca kỹ bến Tầm Dương?”
“Anh dân chơi mà nói nghe bất thông. Chủ
mới là trùm anh chị đó. Công An Xung Phong gát cửa lềnh
đó không thấy sao? Yên bụng chuyện nầy chuyện
kia cũng là nhờ ông ta đó. Thế thần lắm mới
mua được đất tống chủ cũ đi. Mạnh
ngang trời mới chạy được cái giấy phép
hái ra tiền nầy.”
Cô Út kéo mí khăn lau mắt. Chuyện đời
sao như có ai lấy trấu xát tới xát lui vô dạ. Cảnh
tung tăng chạy giỡn ngày trước luồn trong mấy
luống bông, cảnh giơ cao bình tưới tiếp nhựa
sống cho những đóa hoa mơn mởn, cảnh dàn bông
thơm ngát ngút ngàn, cảnh tấm thảm dát bạch ngọc
lúc đầu ngày bay nhảy chập chờn trước mắt.
Cảnh anh Hai bỏ mạng vì con rắn hổ lửa cắn
thầy thuốc rắn đem thuốc giải với lá
lưỡi cọp tới trễ nên xùi bọt mép. Cảnh
anh Ba xớ rớ sao mà đạp đinh hàng rào chỗ chuồng
ngựa mấy bữa sau bị phong đòn gánh vật, tất
cả như những bức họa trên nền xám từ từ
chạy lại như thể sẵn sàng úp vô mặt cô. Cô
như lên cơn, nói lảm nhảm một mình:
“Anh Năm thấy chưa, tại anh làm bậy
nên gia đình mình tan nát hết. Cái vườn của ông bà
mồ hôi nước mắt bốn chục năm nay, sanh
mạng hai anh mình trong đó. Một đời cha mình đổ
mồ hôi dựng nhà dựng cửa, bây giờ anh làm cho vô
tay người khác để họ làm chuyện trời thần.”
Một chiếc xe autobus treo bảng Chợ
Lớn-Bình Tây ngừng lại bên kia đường. Cô lụi
xụi bước qua lộ, leo lên xe, dáo dác kiếm chỗ
ngồi. Mấy năm ở rẫy bái bây giờ cô như
ngại ngùng văn minh thị thiềng. Người
đàn ông bán thuốc lẻ
dòm chăm bẳm theo cô Út lần nữa, mắt nháy nháy, nhỏm
đít lên ý như muốn chạy theo kêu nhưng rồi lại
ngồi xuống khi bóng cô khuất bên trong xe.
“Không biết rồi mình còn về thăm lại
cuộc đất nầy bao nhiêu lần nữa. Buồn
thúi ruột. Nhớ quá nên lặn lội, nhưng về thấy
tang thương biến đổi càng đau.”
Một đứa học trò nhỏ, áo bà ba
trắng, tóc kẹp ngồi cùng băng lõ mắt ngó sững
người đàn bà đi cùng chuyến xe đương
ngồi láp dáp một mình.
***
Bao
nhiêu năm nay tôi thường chiêm bao thấy mình
đương ở trong căn nhà cũ. Tôi thấy mình
tưới nước bông lài buổi sáng sớm mai. Tôi cảm
nhận được rõ ràng mùi bông lài thơm nhè nhẹ
trong không khí, một mùi quen thuộc mà tôi không thể nào gặp
được bất cứ chỗ nào. Tôi thấy mình rửa
cẳng, kỳ cọ chỗ đất có trùng đùn. Thấy
ba má anh Hai anh Ba đủ hết mà không thấy anh Năm.
Thấy tôi khom khom sới phân ủ để ra luống mới.
Vía tôi nói với tôi: Ủa, vườn nầy anh Năm ảnh
làm giấy tờ giả ký tên ông già để lại trọn
gia tài cho một mình ảnh rồi ảnh bán cho thiên hạ
lâu rồi mà. Cả mười mấy năm rồi. Vía
tôi cũng nói tôi đương ở Mỹ Tho chớ
đâu còn ở xóm Vườn Lài nữa. Vậy mà tôi vẫn
vui vẻ tưới nước, xới phân từng luống
từng luống, chăm chỉ và sung sướng với
công việc của mình.
Ba tôi
kêu mấy đứa con lại đứng xung quanh rồi
ông rờ đầu tôi nói vườn nầy là của
chung anh em tụi bây. Giữ thì anh em đoàn tụ, không giữ
thì trôi sông lạc chợ chia lìa mỗi đứa một
nơi, có khi còn không bao giờ thấy mặt nhau…
Cứ
ba cái chuyện cũ như vậy của lúc ở Vườn
Xoài mà tôi thấy đi thấy lại hoài, chuyện tôi với
con Cúc đi bán bông, chuyện phơi bông, chuyện bẻ
thơm đếm cho bạn hàng, chuyện thằng Thìn bắt
được con dế cơm bự xộn nó hí hửng
đem khoe bị tôi biểu thả nó buồn thỉu buồn
thiu… Bữa nào thấy chiêm bao kiểu đó thì sáng thức
dậy lòng buồn dã dượi cả ngày, ước sức
muốn chạy ngay lên Sài Gòn thăm lại miếng vườn
cũ.
Cái thằng
cha bán thuốc điếu sao coi giống anh Năm.
Nhưng sao lại có một mắt hà? Không lẽ ảnh bị
tai nạn gì đó? Mà thôi phải – không gì mặc kệ.
Nhìn làm khỉ gì cho mất công, tình nghĩa gì nữa. Ủa
sao bao nhiêu năm nay mà chỗ nầy vẫn còn bay mùi
thơm bông lài? Bộ cái mùi nó núp sẵn trên hàng cây dầu
chờ tôi về bu lại mừng sao chớ? Dám lắm à.
Thơm như hồi đó, có khác gì đâu. Cái mùi thoang thoảng
nhẹ khi tảng sáng sương còn chưa tan.
Thấy
thiên hạ tấp nập nhớ tới lúc còn đi bán
bông. Ai mà hỏi chọc chớ bông lài nầy có cặm bãi
cứt trâu không thì in như rằng con Cúc sẽ liếc háy
người ta nói móc họng hay xỏ xiên gì xa gần. Lúc
đó tôi chỉ cười cười phân trần rằng
đừng coi là cứt trâu thuần túy mà nên coi là phân
đi. Phân đem sức sống lại bông lài. Bông lài cần
được cắm vô phân trâu đó. Bây giờ đây kiếm
đỏ mắt một người chọc gái kiểu
đó cũng không có. Tôi là nhánh bông lài không những bị
tước bỏ phân cứt trâu mà còn bị rứt ra khỏi
chậu đất tôi bén rễ đâm cành từ ngày mới
lú lên cặp lá đầu tiên. Tôi nhớ đất nhớ
phân nên héo hon gầy guộc tàn tạ chờ ngày nằm xuống
như một cây khô không hương. Bây giờ tôi là thứ
không còn ai ngó tới huống gì người buông lời ghẹo
ngọc trêu huê?
***
Xe rồ máy thổi vọt một cuộn
khói đen xì đằng sau đít rồi từ từ nhích
bước trước khi vô tốc độ, giống
như một con heo bị đuổi, đủn đa
đủn đỉn bước đi không tỏ chút gì vội
vàng. Trận mưa chiều đổ ụp xuống nhạt
nhòa cảnh vật. Qua lớp kiếng đục trầy
trụa, cô Út ráng hết sức bình sanh thâu vô mắt lần
chót hàng cây dầu đương độ lớn – dãi nhà
lầu có tường bao xung quanh – rue Pierre Pasquier – Hưng
Long tự - rue Frédéric Drouhet – nhà máy đá với hãng rượu
la-de con cọp…
Mưa càng lúc càng lớn. Như cầm tỉnh
mà đổ.
Cái chéo khăn rằn sọc đỏ nhích
lên lướt nhè nhẹ qua lại trên mắt người
đàn bà luống tuổi, thân ái.