TÌNH MẪU TỬ
Lililka
Naros (Hy Lạp)
Nguyễn
Văn Sâm dịch
Lilika Nakos sanh năm 1903
tại Athens, có truyện ngắn đầu tay in trên
tờ tạp chí Europa của Pháp. Bà được coi là
tác giả Hy Lạp cận đại khai thác vấn đề
nhân bản.
Một trong những
truyện nỗi tiếng của bà là Lost Soul (1943).
Truyện ngắn Tình Mẫu Tử
(Maternity) được coi là cổ điển và được
dạy ở nhiều trường Đại học trên
thế giới vì nói lên được hai mặt
đối cực của con ngưởi: dửng dưng /
giúp đở trước sự hoạn nạn của người
khác. (NVS)
Họ đến Marseilles đã hơn tháng nay rồi,
trại tỵ nạn của họ, người Armenian,
ở ngoại ô trông giống như một ngôi làng nhỏ.
Họ sử dụng bất cứ thứ gì có
được để che nắng đở mưa:
người kha khá thì dùng tăng, dùng lều, phần
lớn còn lại không thể tìm thấy gì khả dĩ
tốt hơn, bèn tạm trú dưới những tấm
thảm treo bốn góc trên bốn cọc cây. Ai may mắn
hơn thì tìm được tấm vải treo phủ
bốn bên để che ánh mặt trời chói chang. Rồi
thì họ coi đây là nhà. Đàn ông đổ xô đi tìm
việc-- bất cứ thượng vàng hạ cám việc
gì cũng được-- để khỏi bị cơn
đói hành hạ, với lại để lũ trẻ còn có chút gì đó bỏ vô miệng.
Trong đám này, thằng Mikali không thể làm gì
được hết. Nó ăn bánh mì dư của
những người ở lều kế bên thương
hại liệng ra cho. Nặng trĩu lòng nó khi nhận. Nó
là thằng bé bự xộn, mười bốn tuổi
rồi chúu bộ, lại mạnh khỏe nữa. Nhưng
làm sao tìm được công ăn chuyện làm khi nó
phải mang trên lưng gánh nặng là một đứa bé
sơ sanh? Thằng bé ra
đời tạo nên cái chết của mẹ nó, từ lúc
đó tới giờ khóc i-ỉ suốt ngày vì đói khát.
Làm sao có thể chấp nhận cho Mikali làm khi mà chính
người đồng hương với nó cũng
đuổi nó ra khỏi láng vì không chịu nỗi tiếng
khóc rĩ rã liên tục của thằng bé, tiếng khóc
khiến họ cả đêm mất ngủ. Chính thằng
Mikali cũng chán nãn về tiếng khóc nầy. Đầu
óc nó trống rỗng, nó lang thang như một kẻ vô
hồn. Chết mệt vì thiếu ngủ và rã rời, nó
luôn phải lê bước với gánh nặng điếc
tai nhức óc trên vai, gánh nặng một sự ra
đời làm cho cuộc sống nó vô vàn khổ sở.
Đứa bé quả đã chọn không đúng lúc cũng
không đúng chỗ để xuất hiện trên trái
đất này. Tiếng khóc nó làm mọi người chán nãn. Họ đã chịu
đựng quá nhiều khổ lụy rồi, họ
thương hại ước mong thằng bé chết
đi cho yên thân h?. Nhưng nó không chết, nó tuyệt
vọng tìm con đường sống bằng cách khóc
lớn hơn, báo động cái đói khát của mình.
Mấy người đàn bà vô tâm đã bịt tai lại,
và Mikali đi lang thang như một thằng say. Không
đồng xu dính túi để mua s?a cho thằng bé, không
nhờ được người đàn bà nào trong
trại sẵn lòng giúp cho thằng bé bú thép. Một chút thôi
để đở lòng cũng được!
Một ngày kia, không thể chịu đựng hơn được
nữa, thằng Mikali đi về phía bên kia trại,
về phía trại của người Anatolia: họ
cũng là người tỵ nạn, trốn chạy
sự tàn sát của dân Thổ Nhỉ Kỳ ở vùng
Tiểu Á. Có người nói với Mikali rằng ở
đấy có một người đàn bà có thể
thương, giúp thằng bé. Nó đi mà lòng hi vọng tràn
trề. Lều trại của họ cũng giống
như lều trại ở bên nó-- cũng cái nghèo khổ
đó. Mấy bà già còng lưng trên sạp ván kê sát
đất; trẻ con chân không chơi vọc ở mấy
vũng nước dơ. Khi nó tới nơi, vài bà già
nhỏm dậy hỏi thăm nó cần gì, nhưng nó
tiếp tục tiến bước, chỉ ngừng
lại trước một một căn lều mở cửa
có treo hình Đức Mẹ, từ bên trong vọng ra
tiếng khóc của trẻ thơ.
"Xin vì Đức Mẹ Bác Ái, Đức Mẹ mà
quý bà đã thờ phượng,' nó nói bằng tiếng Hy
Lạp, 'Hãy thương hại đứa trẻ mồ
côi tội tình này, cho nó một chút sửa. Tôi là một
người Armenia khốn khổ bần hèn....'
Một thiếu phụ duyên dáng, đen dòn, hiện ra.
Tay cô b?ng một đứa trẻ đang nút vú mẹ, sung
sướng tuyệt cùng, đờ đẫn, lim dim
mắt.
Cô ta hỏi, "Đưa đứa nhỏ coi, trai
hay gái đây?"
Tim Mikali đập mạnh vì vui sướng. Vài ba
người hàng xóm đến gần để coi, họ
giúp Mikali lấy cái bịt đựng thằng bé ra
khỏi vai nó, họ tò mò chồm tới nhìn cho rõ. Nó dở
tấm khăn ra. Mấy người đàn bà thét lên
những tiếng hãi hùng. Thằng bé không còn chút nhân dạng
gì nữa. Cái đầu bị bự như trái bí, thân hình
đã mỏng thiệt mỏng rồi còn teo rút lại
nhỏ xíu nhỏ xiu. Lâu nay thằng bé chỉ có ngón tay
để bú, ngón tay bây giờ sưng nở lên, không còn
đút vừa vô miệng nó nữa. Thiệt là khủng
khiếp! Chính Mikali cũng lùi lại vì sợ hải.
"Mẹ ơi!" một người đàn bà kêu
lên, "đây là một con dơi hút máu, quả thiệt
rồi, một con dơi hút máu! Có sữa, tôi cũng không
dám cho nó bú đâu."
"Chính là một kẻ phản Chúa!" một
người nữa nói trong khi làm dấu thánh giá.
"Đúng là con của tụi Thổ rồi!"
Một bà già xọm chập choạng đến.
"Hu, hu!" bà kêu thét lên khi thấy thằng nhỏ.
"Quỷ dữ đây mà!' Rồi quay về phía Mikali bà
la m?ng: "Đi! Đi ra khỏi chỗ nầy ngay,
đồ ôn hoàng dịch lệ xui xẻo, đừng có
héo lánh tới chỗ nầy nữa nha. Mầy đem tai
vạ tới cho tụi tao đó!"
Rồi thì tất cả bọn xúm lại đuổi
xô, đe dọa nó. Mắt nó nhòe nhoẹt, nó ra đi, mang
theo đứa nhỏ vẫn còn bị cơn đói hành
hạ.
Không thể làm gì được hết, đứa
nhỏ đã bị kết án tử bằng cách bỏ
đói rồi. Chính Mikali cũng cảm thấy vô cùng cô
đơn và tuyệt vọng. Một luồng hơi
lạnh chạy dài trên sóng lưng khi nó nghĩ tới
đang mang trên lưng mình một con quái vật. Nó ngã
vật xuống trên bóng mát của một căn lều.
Trời vẫn còn quá ấm. Khung cảnh trãi rộng ra trước
mắt nó là một giải đất rộng, khô cằn,
đầy dẫy rác rếnh. Còi trưa kêu lên từ
đâu đây. Tiếng còi gợi nó nhớ rằng mình không
ăn gì hết từ hôm trước l?n. Phải lỏn ra
ngoài phố, quanh mấy quán cà-phê ngoài đường, bóc
trộm mấy miếng bánh mì ăn dỡ dang còn bỏ
lại trên dĩa mới được; hay là lục
lọi trong mấy cái thùng rác kiếm món gì mà chó chưa
ăn. Thình thình nó cảm thấy cuộc đời sao mà
đầy những kinh hoàng, nó đưa tay lên che mặt,
khóc trong nỗi tuyệt vọng vô bờ.
Khi nó ngước mặt lên, một người
đàn ông đang đứng trước mặt nó, ngó
xuống. Nó nhận ra đây là người Tàu
thường đến trại bán mấy thứ trang
sức rẽ tiền làm bằng giấy hay là những
thứ lẩm cẩm để đeo tay, thấy chú bán mà
không thấy ai mua. Thường thường người
ta trêu chọc chú vì màu da và đôi mắt xếch của chú,
bọn nhỏ hát ghẹo: "Cắc chú ba tàu thằng nào
cũng như thằng nấy, thằng nào láng cháng
đuổi cha nó đi về Tàu..."
Mikali thấy chú nhìn xuống nó trìu mến, môi mấp
máy như muốn nói điều gì. Rồi thì chú nói:
'Đừng khóc, đừng khóc chú bé..." Rồi rụt
rè nói thêm: 'Đi theo tôi...."
Mikali chỉ có thể trả lời bằng cái
lắc đầu; nó muốn chạy trốn. Nó từng
nghe biết bao nhiêu là chuyện kinh khủng về sự
tàn ác của người phương Đông rồi! Ở
trại nó còn nghe cả những chuyện như họ có
thói --- giống người Do Thái--- đi bắt cóc
trẻ con Công giáo về giết để uống máu!
Nhưng người đàn ông kia vẫn đứng
đó, không nhúc nhích. Vì vậy trong lúc quá tuyệt vọng,
Mikali đã đi theo ông ta. Còn chuyện gì xấu xa tồi
tệ hơn nữa có thể xảy ra cho nó chứ? Nó
đi mà run rẩy, yếu nhớt, gần té với
thằng nhỏ trên lưng. Người Tàu đến
gần nó, ẳm giùm nó đứa nhỏ, ôm vào lòng, trìu
mến.
Họ qua nhiều khu đất trống, rồi thì
rẽ vô con lộ nhỏ dẫn đến một cái
lều gỗ có vườn rau nhỏ bao quanh. Ông ta
ngừng trước cửa, vổ tay hai cái. Có tiếng
bước chân nhè nhẹ bên trong, một người
nhỏ thó bước ra mở cửa. Nhìn thấy ông ta,
khuôn mặt người đàn bà rạng rỡ lên, một
nụ cười hạnh phúc nở ra. Bà ta chào họ,
đơn giản. Khi Mikali đứng chôn chân ở đó,
bối rối thì người Tàu nói với nó: 'Vô đi
chứ; đừng ngại ngùng gì hết. Đây là vợ
của tôi."
Mikali đi vô trong, phòng rộng hơn mình
tưởng, chia ra ở giửa bằng một tấm
bình phong giấy màu. Mọi chỗ đều sạch
sẽ ngăn nắp, dầu rằng có vẽ bần hàn.
Trong một góc nhà, nó thấy một cái nôi mây.
"Đây là con tôi," thiếu phụ nói trong khi
duyên dáng nghiêng đầu về một bên, cười
với nó. "Con tôi rất nhỏ, đẹp lắm;
đến đây coi."
Mikali đến gần, thầm thán phục. Một
đứa nhỏ bụ bẩm, nước da không đen
như mẹ nó, đang ngủ thanh bình, được
đắp bằng một tấm vải có những thêu móc
bằng vàng, giống như một tiểu vương gia.
Rồi thì người chồng kêu vợ lại,
mời vợ ngồi xuống chiếu, không nói lời nào,
ông để lên đùi nàng đứa nhỏ đang
chết đói rồi cúi đầu thật sâu
trước vợ. Người đàn bà ngạc nhiên, cúi
xuống kéo tấm vải che đứa nhỏ ra. Hiện
ra trước mặt nàng đầy đủ tất
cả bộ xương kinh khủng của nó. Nàng kêu lên--
một tiếng kêu thương hại tuyệt cùng--
rồi ẳm đứa nhỏ xiết vào chỗ trái tim,
cho bú. Với một cử chỉ dung dị, bình
thường, nàng kéo vạt áo phủ bộ vú căng sữa,
đứa trẻ đáng thương, háo đói đang bú
chùn chụt ở đó.
(Dịch theo bản
tiếng Anh)
Texas, Dec. 2002