Đồng quê, dân quê, t́nh quê

trong sáng tác của Phi Vân

Huỳnh Công Tín

 

1. Đề tài nông thôn trong sáng tác của các nhà văn không phải là điều ǵ mới lạ. Tuy nhiên, để khắc họa được một bức tranh quê với đủ các diện mạo, màu sắc của nó không phải là điều dễ dàng. Có thể nói, phần lớn chủ đề tác phẩm của các nhà văn miền Nam đều gắn liền với đời sống nông thôn. Nhưng, đọc những tác phẩm của họ mà chúng ta có thể nhận diện được một bối cảnh nông thôn miền Nam toàn diện, th́ có lẽ không ai khắc họa được rơ nét cho bằng Phi Vân.

Phi Vân (1917-1977), nhà văn xuất thân trong một gia đ́nh trung lưu ở Bạc Liêu, đă có ba tác phẩm viết về miền quê Nam Bộ, mà có lẽ nhiều độc giả cũng đă biết đến. Đó là bức tranh quê toàn diện: Đồng quê, Dân quêT́nh quê. Bản thân Phi Vân là một nhà báo lớn thời ấy. Ông có điều kiện đi và tiếp xúc nhiều, bởi đó ông mới có được 3 tác phẩm quư giá này. Đồng quê được Lâm Thế Nhơn (tên thật của Phi Vân) cho xuất bản năm 1942. Dân quê T́nh quê đều được xuất bản năm 1949. Trong ba tác phẩm này, Đồng quê được nhiều người biết đến hơn - Đồng quê được giải nhất cuộc thi văn chương của Hội khuyến học Cần Thơ 1943.

 

2.1. Đồng quê - thiên tiểu thuyết phóng sự - có hai phần: phần thứ nhất bao gồm nhiều phóng sự ngắn; phần thứ hai là một phóng sự dài. Ở phần thứ nhất, có các phóng sự ngắn đáng chú ư như: Muốn ăn trứng nhạn, Châu Xương, cử thanh long đao!, Trao thân con khỉ mốc!, Cành tre cũ gặp gió xưa, Đổng Trác biết sập giàn, Ông tướng “thầy Ba”, Đạo, Quỷ vương, Tiếng ḥ trong đêm vắng, Chợ hay quê?, Các tṛ ơi! Thầy phen này thọ tử, Sanh nghề tử nghiệp. Ở phần thứ hai, một phóng sự dài Dưới đồng sâu có những tiểu truyện: Câu cá, Cá mắc câu, Tôn sư, Đạo phù thần, Ôm mà xơ rốp,... Mà ha xơ rốp, Oan...!, Nghiệt!, Muộn màng, Tử thù, Trăng thah, Hận ngh́n đời, Đoạn kết...

Trong các phóng sự ngắn, h́nh ảnh một vùng quê sông nước bao la với vô số những sản vật mà thiên nhiên ban tặng: trúc, rái, chồn, rùa, ḱ đà, ong mật, cá tôm... đă quy tụ về đây những con người thiện có, ác có, nhưng vẫn toát lên một nét quê mùa, chất phác, và những sinh hoạt cũng mang tính đặc thù của một vùng đất: di chuyển bằng ghe xuồng, sinh hoạt tinh thần là vọng cổ, điệu ḥ, câu hát (Muốn ăn trứng nhạn)...

Vùng đất hoang sơ buổi đầu con người mới đặt chân đến khai phá lại là mảnh đất tốt cho bọn ông đồng, bà cốt, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân, cộng thêm vẻ huyền bí của tự nhiên buổi đầu mà tha hồ ăn trên ngồi trước (Châu Xương, cử thanh long đao! Ông tướng “thầy Ba”). Vùng quê sông nước, tuy là ít lễ nghi, phong tục, nhưng không phải là không có những tập tục ràng buộc quá khắt khe, khiến cho nhiều người phải bực ḿnh. Ông Hương Ba nào đó đại diện cho nhà trai, tuy rằng cũng khéo “nhẫn”, nhưng cuối cùng cũng không chịu được những đ̣i hỏi quá quắt của nhà gái, đành phải cộc lốc trả lời: “- Trao thân... con khỉ mốc!” rồi cho “anh tài công tàu giựt chuông mở máy” (Trao thân con khỉ mốc!). Cũng như bao vùng quê khác, đời sống của người dân nghèo luôn chịu cảnh thua thiệt do bọn hương chức, hội tề làng, xă dùng thế lực và tiền bạc để bóc lột sức lực, t́nh cảm của họ hoặc đàn áp họ. Miền quê Nam Bộ buổi đầu mới đến khai phá, người dân lao động cũng không tránh khỏi t́nh cảnh khốn quẫn ấy (Cành tre cũ cặp gị xưa).

Sinh hoạt tinh thần của họ cũng nghèo như đời sống vật chất của họ, dù là được thiên nhiên “hào phóng” ban tặng cho miếng ăn. Vốn không lo toan nhiều đến đời sống vật chất, mà có lo hơn th́ cũng chẳng được ǵ; bù lại, họ luôn khao khát có được niềm vui, cuộc sống tinh thần, từ những buổi cúng đ́nh, có ghe hát đến giúp vui: “Đ́nh đang buổi lỳ yên. Người ta dọn sẵn sàng tất cả, chỉ chờ ghe hát đến là lên giàn” (Đổng Trác biết sập giàn), hoặc những buổi xem diễn tuồng ở rạp trở thành thói quen không thể thiếu:

“Rồi tối đến, người ta đem theo cắc bạc bỏ vào cái thùng của cô Tám, con ông Hội trưởng và vô để xem một đệ nhất anh hùng của thời Tam Quốc!

Đêm sau, rồi đêm sau...

Thói quen, thằng Tám Méo cũng quen. Cả xóm đều quen. Cả Cà Mau quen luôn! Hát bóng nói ở các tỉnh lớn dễ đă được hoan nghinh hơn!” (Chợ hay quê?).

Buổi đầu đến khai phá, con người chắc có nhiều tâm sự; vả lại, cuộc sống đơn điệu gói gọn trong hai chữ “mần ăn”, nên rượu là người bạn thân thiết với dân lao động. Rượu đă làm nên lễ, nhưng rượu cũng gây ra bao nhiêu tai họa. Rượu thắt chặt quan hệ t́nh cảm, làm người ta hiểu đạo hơn. Nhưng quá chén, quá lời dễ làm cho bạn biến thành thù (Đạo).

Một chút văn minh đô thị đến sớm có thể làm cho thiên hạ ngỡ ngàng, thiếu thái độ phản ứng tích cực. Nhưng điều này, phải đợi thêm một thời gian nữa (Quỷ vương). Tiếng ḥ có lẽ đáp ứng được nhu cầu chia xẻ tâm sự của con người ở miệt đồng quê sông nước. Đôi khi người ta dùng nó như một thứ dẫn dụ t́nh cảm. Đă là t́nh cảm, con người khó ḷng mà cưỡng lại, và không lường hết mọi hậu quả (Tiếng ḥ trong đêm vắng). Người dân quê ở đây thiếu chữ, nên bị đám thầy pháp lộng hành bày vẽ. Nhưng họ vẫn ham học, hiếu học: “Tuy nhiên trong các nghề kiếm ăn, nghề “dạy học” vẫn giữ một địa vị quan trọng ở đồng, đâu đâu cũng không dám coi thường. Thế nên, là thầy giáo th́ ở đâu cũng dám tới” (Các tṛ ơi! Thầy phen này thọ tử).

Nhờ có chữ, người dân miền quê dần bớt được cái “quê mùa”, nhưng một thời họ đời sống của họ đă bị “khống chế” bởi bọn pháp sư, trong đó có cả thầy tà, thầy bói. Dân gian có câu: “Sanh nghề tử nghiệp” cũng là đúng. C̣n luật nhân quả th́ nói “Gieo gió th́ gặt băo”. Câu chuyện Sanh nghề tử nghiệp của Phi Vân kết thúc phần thứ nhất của phóng sự Đồng quê như gián tiếp phê phán một lớp người ác bên cạnh lớp người hiền, buổi đầu đă đến khai khẩn vùng đất, mà theo ông họ cũng có một chút công nào đó cho sự góp phần khai phá, ngoài cái tội ăn bám:

“- Vậy mà cũng đoán số! Sao mày không đoán cái số mày... chết về tao, thằng kia?...

Hai hôm sau, “Mét Văn Quang” đoán số ḿnh không sống nổi nữa, nên đă trút linh hồn tại xứ Năm Căn: cái xứ mà “Mét” đă phụ vào một chút công làm trôi mất tiếng quê mùa!”.

 

Phần thứ hai - phóng sự dài Dưới đồng sâu nói về t́nh cảnh mẹ góa con côi của anh chàng nông dân nghèo có tên là Sáu. Bà mẹ hiền và bản chất của Sáu cũng chân chất, lại có thêm biệt tài đờn ca cổ và sự cần cù chịu khó của Sáu, nên cuộc sống của họ ban đầu khi đến với vùng đất mới xem ra cũng dễ chịu, dù ở đâu th́ họ cũng bị bóc lột. Điều này Sáu cũng ư thức rơ: “Tôi đến đâu cũng được người ta niềm nở, ân cần... Tiếng ca giọng đờn làm trung gian gây ra biết bao nhiêu t́nh thân ái đậm đà”. Nhưng sự thiếu học ở vùng đất mới, đă đẩy Sáu và những gia đ́nh khác vào một đam mê tai họa đó là “đạo búa”, để rồi phải chứng kiến cái chết thảm thương của cô Yến, con của lăo thầy pháp Mạnh. Đó cũng là thực trạng đau ḷng ở vùng đất mới, v́ kẻ thù của người nông dân không chỉ có địa chủ mà c̣n là giới thầy pháp, ông đồng bà cốt. Sáu lại c̣n thêm cái tính đêm ngày cứ “lo đờn địch ca xang”, nên hơi chểnh mảng việc đồng áng, để rồi cái nghèo nó vẫn đeo đẳng quanh quẩn, như lời nhận xét của chủ điền: “Thím coi, đêm ngày nó cứ lo đờn địch ca xang. Thím la rầy nó chớ! Tôi nghe đâu nó lại nhà ông thầy pháp Mạnh thường lắm. Đố khỏi nó bị người ta dụ dỗ, sa đà rồi quên hết việc ruộng nương”. Cái ǵ đến rồi cũng sẽ đến. Bản chất của chủ điền là làm giàu trên công sức của nông dân; c̣n “t́nh nghĩa” nếu có là phương tiện để đạt được mục đích. Sự giúp đỡ của chủ điền đối với mẹ con anh Sáu chẳng qua là ḷng ham muốn chiếm đoạt thể xác mẹ của Sáu. Nên kết cục là gia đ́nh anh Sáu tan nát: mẹ chết, c̣n anh phải ngồi tù, v́ sự ham muốn bất chính của kẻ có quyền lực. Trước khi chết, mẹ anh cũng kịp nhận ra điều này: “- Người đánh má là... bà chủ! Thảm thiết chưa con, nhục nhă chưa con!... Thằng Hai Hóa lúc năy đi rồi, ông chủ lại đây, ổng ngồi lân la chuyện văn, ổng mở lời chọc ghẹo má... ổng ôm đại má... th́ bà chủ ở đâu nhảy xổ vào... Bả níu đầu má, bả chửi, bả rủa... cùng với con ở trói má vô gốc cột, đánh má, đập má tơi bời... Mà con ơi..., má đâu có tội t́nh ǵ... Con... con...!”. Ở tù ra, đi biệt xứ, Sáu cũng đă có được ít chữ nghĩa, hiểu biết về cuộc đời và có cái nh́n đời một cách sâu sắc hơn, đúng như anh nhận định: “Năm năm trong tù, tôi học rành chữ quốc ngữ và mon men được chút đỉnh chữ Tây. Mười năm biệt xứ khiến tôi có dịp dày dạn với cuộc đời và nới rộng tầm con mắt”. Từ sự nhận thức này, ông không oán trách họ, mà có cái nh́n độ lượng về họ: “Họ không phải là người gây nên tội ác, họ chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh xă hội và của một thời ḱ...”.

 

2.2. Dân quê là một truyện dài khái quát được t́nh cảnh của người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn hội đồng, hương quản, ở ấp B́nh Thạnh, làng Long Sơn, quận (huyện) Thanh B́nh, thuộc vùng quê Nam Bộ. Hiện thân của sự xung đột này: một bên là ông hội đồng Thế, có sự trợ lực của bọn hương quản, c̣n bên kia là dân nghèo, mà điển h́nh là gia đ́nh ông giáo Thiện.

Ông hội đồng Thế không từ bỏ một thủ đoạn nào để thực hiện cho được những âm mưu đen tối và tội lỗi của ḿnh. Từ chuyện cướp đất của nông daan ấp B́nh Thạnh để làm của riêng, biến họ thành tá điền của ḿnh, lúc ông c̣n làm hương cả trong làng, với thủ đoạn: “Để cho một đám dân khai phá đất ấy gần xong xuôi, ông mới vào đơn xin khẩn. Ông bảo đảm người kia làm mướn cho ông, chính ông xuất tiền nuôi họ. Ông vận động thế nào mà đến khi ông đứng địa bộ hẳn hoi, đám dân mới hay là tự thuở giờ, họ làm mọi không công cho ông hương cả...”, đến thủ đoạn hại gia đ́nh ông giáo Thiện phải có người tù tội, làm cho em rể giáo Thiện vợ chồng phải li tán v́ phải ở tù để trừ tiền đóng phạt: “Thợ Tám không nỡ để anh vợ ḿnh mang họa tiêu tan sự nghiệp, đánh liều làm đơn nhận tội về ḿnh”.

Tội ác của ông hội đồng Thế không dừng lại ở đó. Ông c̣n t́m kế để thỏa măn ḷng ham muốn dục vọng của ông và chánh hương quản, bằng cách lập mưu kế để ông cưỡng hiếp được em giáo Thiện là vợ của thợ Tám; c̣n thầy hương quản th́ ngủ được với vợ của tằng khạo Lành. Sự việc đổ bể ra, khi chánh hương quản bị khạo Lành chém, th́ hội đồng Thế đă dùng tiền ém nhẹm, và ép khạo Lành man khai cho giáo Thiện mướn chém, để hương quản làm tờ phúc bẩm về trên đưa ông giáo Thiện và khạo Lành vào tù, c̣n bọn chúng th́ nhân đó xin ban thưởng. Thật là quỷ kế của bọn thống trị làng ấp: “Tờ phúc bẩm gởi đi rồi, thầy nằm nhắm mắt lại hả hê: “Như vậy thế nào thằng cha giáo Thiện và khạo Lành cũng bị ở tù chung thân. Thằng cha giáo Thiện bị tù, ông hội đồng sẽ mang ơn ḿnh nhiều hơn nữa, ông sẽ mở rộng túi đưa cho ḿnh như lời ổng hứa. Khạo Lành vô khám, ḿnh mới được tự do lên xuống với vợ nó...”. Rồi vụ này, ḿnh làm đơn xin thưởng mề đay, chắc chắn không c̣n hụt nữa...”.

Tức nước th́ vỡ bờ. T́nh cảnh nông dân đă đến tận cùng của sự ngột ngạt. Chàng thanh niên Tâm, con ông giáo Thiện, đă nghĩ tới thù nhà mà định liều mạng đổi mạng: “Dưới cái chế độ bất công ấy, cháu chỉ c̣n có cách liều ḿnh. Dầu cháu không giết được chúng đi nữa, chúng nó cũng tởn tới già và không c̣n dám húng hiếp ai...”. Nhưng, điều ấy không xảy ra v́ sự giác ngộ của dượng Tám với Tâm: “Phải làm sao tận diệt cho được chế độ đó, tức nhiên, họ sẽ không c̣n. Chế độ đó bị tiêu diệt là ḿnh đă trả thù - không phải chỉ cho riêng ḿnh - mà cho tất cả dân quê của xứ sở...”; Hơn nữa, v́ t́nh yêu trong sáng và tiến bộ của Quyến, con gái ông hội đồng, Tâm đă có một cách hành xử “hợp lí” hơn, khi anh cùng dân chúng bắt trói hương quản và hội đồng Thế, và đốt hết giấy nợ cho dân chùng: “- Hồi năy tôi có nói sẽ tặng cho anh em một món quà quư giá để kỉ niệm ngày tôi đi ở tù... Th́ đây, món quà ấy là những giấy nợ này mà tôi buộc ông hội đồng phải đưa hết cho tôi. Nó là dấu vết của bao nhiêu sự bóc lột. Đời sống của anh em bị trói buộc măi vào đời sống của ông hội đồng cũng v́ nó. Giờ không lí nào để nó c̣n tồn tại được nữa...”.

Kết thúc tác phẩm là quang cảnh khu ấp B́nh Thạnh ch́m trong biển lửa. Nó dự báo một giai đoạn quyết liệt giữa chủ điền và nông dân. Và đó cũng là đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở vùng quê Nam Bộ nói chung: “Từ đó, ấp B́nh Thạnh âm ỉ măi cho đến ngày cách mạng nổ bùng...”.

 

2.3. T́nh quê lại là một truyện dài năm chương, khắc họa một t́nh cảm thủy chung của một đôi trai gái không “môn đăng hộ đối”. Đó là mối t́nh của cô Nhạn, con gái ông Hương kiểm với Giác, anh chàng nông dân nghèo, t́nh nguyện đi ở rể theo sự “cam kết hai năm” với cha cô Nhạn. Tuy nhiên, với bản chất coi trọng tiền của hơn người, ông Hương kiểm chỉ nghĩ tới chuyện lợi dụng công sức của Giác hơn là quan tâm đến hạnh phúc cho đôi trẻ. Nên khi thấy có quyền lợi nào hơn th́ ông sẵn sàng phá bỏ sự cam kết, bất chấp lẽ phải và đạo lí, mà ngay cả vợ con ông cũng không thể nào chịu nổi: “Ông ác quá, tôi làm sao chịu nổi tiếng đời?”.

V́ muốn gả con cho một “thầy giáo” tư, được ông thuê đến dạy chữ cho trẻ con trong xóm, trong đó có thằng Báo con trai ông, để hi vọng có được “danh tiếng” hơn, mà ông đang tâm gợi ư cho thầy giáo Trung cưỡng hiếp Nhạn, con gái ông để hi vọng chuyện đă rồi th́ con ông sẽ lấy Trung mà bỏ Giác, bất chấp sự khóc lóc van nài của vợ ông về âm mưu thâm độc ấy: “Trời ơi! Tôi xin ông, tôi lạy ông, ông muốn ǵ là muốn cho bằng được, không kể danh giá, không kể tiếng đời! Tội nghiệp con tôi, ông ơi!...”. Bị đặt trước chuyện đă rồi, nhưng Nhạn vẫn giữ một ḷng chung thủy với Giác, mà nhất quyết không lấy Trung, nhưng không thể đến được với Giác, nên cô đành trốn đi tu ở một ngôi chùa không ai rơ. Nỗi buồn chưa nguôi th́ tai họa khác lại ập đến với anh: Ông Hương kiểm cho người tới bắt Giác và đưa anh ra làng để tống ngục, v́ cho rằng anh đă giấu con gái của ông. Lí kẻ mạnh là vậy: “Càng nghĩ, càng khổ tâm, anh nhất quyết ra đi hỏi ḍ để t́m cho được người yêu. Anh vừa vào buồng gói ghém quần áo, bỗng đâu ông Hương kiểm và hai người cai tuần xồng xộc di vào nhà gọi tên anh. Rồi không để anh nói một tiếng ǵ, học áp trói gô anh lại và đưa thẳng ra làng!”.

Hai năm bị tù oan, cuộc đời Giác tưởng không c̣n hi vọng. Nào ngờ, thời cuộc đă đổi thay, Cách mạng tháng tám 1945 đă thành công, đời sống vạn dân nghèo đă t́m thấy ánh sáng. Trong cuộc đời mới, Giác và Nhạn đă giác ngộ được lí tưởng và trong công tác họ đă gặp nhau; hơn nữa, duyên may đă để hai người gặp ông Hương kiểm, giờ đă mất chức và bị thương nặng trong một cơn hỗn loạn, để ông c̣n có được một lời ăn năn, xin lỗi chàng rể và con gái. Một kết thúc tạm gọi là có hậu cho cuộc t́nh duyên nhiều trắc trở này: “- Điều mà ba muốn nói là... xin hai con tha thứ cho ba! Ba đă lầm lỗi, làm cho hai con điêu đứng... Giờ ba muốn hai con hứa với ba một tiếng để ba yên ḷng nhắm mắt...”.

 

2.4. Với văn phong của một nhà báo hơn là một nhà văn, (Phi Vân đă từng cộng tác với nhiều tờ báo và tạp chí: Tiếng chuông, Tiếng dân, Dân chung...), Phi Vân đă khái quát được xă hội và tính cách của người nông dân Nam Bộ không bằng lối văn hoa mĩ, bóng bẩy, nhiều h́nh tượng, nhiều thủ pháp nghệ thuật để phân tích tỉ mỉ, chi li các diễn biến tính cách, sự kiện; mà bằng lối văn đời thường “thô ráp”, nặng về ngôn ngữ nói có chất liệu từ ngữ Nam Bộ và sự chọn lọc một vài dữ kiện đời sống, qua đó vẽ lên được một bức tranh nông thôn Nam Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Để đặc tả cảnh nông thôn Nam Bộ kênh rạch chằng chịt, ông đă dùng những chi tiết của thực tại là: “kinh”, “ngách” và “trấp”. Chỉ cần ba chi tiết này đủ để Phi Vân khái quát lên bức tranh của một vùng quê sông nước: “Kinh Hang Mai ở làng Khánh Lâm (Cà Mau), bắt đầu từ kinh Biện Nhị, phía dưới công sở trổ ra Tiểu Dừa. Kêu là kinh cho nó oai một chút chớ nó quanh co như “cửu khúc trường xà!”. Nó có không biết bao nhiêu ngách và không biết bao nhiêu trấp cản đường” (Muốn ăn trứng nhạn - Đồng quê)Từ điều kiện địa h́nh sông nước, dĩ nhiên, việc đi lại không thể là xe cộ bất cứ lúc nào theo ư muốn người thích, mà phải là ghe xuồng, và tất nhiên mọi hoạt động phải phụ thuộc và con nước. Nếu như ở một vùng quê khác, người ta nh́n “mặt trời lên xuống” để quyết định sự việc, th́ ở vùng quê sông rạch, người ta phải quyết định công việc “thuận theo con nước”: nước lớn, nước ṛng. Bởi đó mà có những sinh hoạt nghe chừng trái khoáy: “Đàng trai lại rước dâu vào lúc mười giờ tối. Lễ xong, chúng tôi cùng nhau xuống ghe lườn. Đàng trai đi hai ghe, đàng gái theo hai ghe, một ghe ông già bà cả, một ghe thanh niên. Ai trông thấy cũng th́ thào khen ngợi, không hổ danh ông Xă chút nào” (Muốn ăn trứng nhạn - Đồng quê).

Ở một đám rước dâu khác, Phi Vân miêu tả khá tỉ mỉ đoạn hành tŕnh đầy gian khổ của người dân quê Nam Bộ, và cũng gián tiếp cho thấy một mảnh đất đồng bằng trời nước bao la mà một thời cha ông họ đă đặt chân đến để khai phá:

 “Chiếc ghe máy có cái mui ngạo nghễ, khoe những dây cờ lon con, giăng từ cột buồm ra sau lái. Tiếng máy chạy x́nh xịch. Trời về chiều. Tàu chạy hôm nay nữa là hai hôm rồi: sông Ông Đốc, kinh xáng Bà Kẹo, Đầm Cùn, kinh xáng Thọ Mai, nhưng xóm Kiến Vàng vẫn c̣n xa lơ xa lắc.

Họ đàng trai đă mệt nhọc ngồi trong chiếc tàu chật hẹp. Người ta ăn hết ba lượt bánh ḿ với thịt quay mua ở Cà Mau. Chú rể ngày đầu c̣n khăn đóng áo dài, hôm sau đă cởi dẹp lại một bên, mặc chiếc áo thun giả ngồi ở trước mũi tàu ngong ngóng, thỉnh thoảng vươn vai hít không khí rồi cú rũ nh́n lũ trẻ trong xóm chạy theo tàu trên bờ sông vỗ tay reo:

- Ê! Đám cưới!...

Anh tài công cho hay:

- Khỏi vàm Mang Giỗ rồi, c̣n hai cái doi nữa là tới Kiến Vàng!

Trời tối đen. Bầy muỗi tha hồ bu cắn mấy ông đi họ đang sật sừ” (Trao thân con khỉ mốc! - Đồng quê).

Đi trên he xuồng chèo giữa đêm khuya thanh vắng, giữa đồng không mông quạnh, để xua tan cơn buồn ngủ và cái mệt nhọc, không có cách nào khát hơn là phải ḥ, phải hát; người ở bên ngoài ghe làm công việc chèo chống th́ phải ḥ, v́ tiếng ḥ mới có thể vang xa trong đêm thanh vắng, mênh mông, mới có thể t́m được lời đồng vọng; người ở trong mui ghe th́ sinh hoạt văn nghệ bằng tiếng đờn hay những câu ca vọng cổ. Phi Vân đặc tả sinh hoạt này rất là thích hợp với lối sống của người dân quê Nam Bộ: “Vào một đêm không trăng. Sao đầy trời. Bóng đêm bao phủ như bức màn mờ. Gặp mùa gió bấc, ngồi rong mui chẹt nghe hơi sương xuống cũng đủ lạnh lùng. Thỉnh thoảng ngọn gió đông hiu hắt lùa vào khoang làm tắt phụt ngọn đèn dầu. Bên ngoài, các anh chèo vừa nhịp mái ăn rập vừa “ḥ khoan” vang dậy. bên trong, ngồi đối diện với mấy cô áo màu xanh đỏ, thằng Năm cảm hứng lên dây Tố Lan đờn một bài vọng cổ rặt mùi” (Muốn ăn trứng nhạn - Đồng quê).

Người dân quê tuy ít học, v́ không có điều kiện, nhưng họ vẫn biết quư trọng chữ nghĩa, tài nghệ. Bởi đó, những người có học, có nghề bao giờ cũng được họ nể trọng, thỉnh mời trong những dịp lễ hội: “Ông Xă mà gă con gái th́ phải biết, cái đám ấy nó long trọng đến bực nào? Muốn có “cái ǵ” thêm long trọng hơn nữa, lúc đưa con về nhà chồng, ông lại t́m ngay chúng tôi: - Thằng Sáu mày có tài ăn nói, thằng Năm mày có ngón đờn hay, vậy bây vui ḷng theo tao qua bên đàng trai cho xôm, để bên ấy biết rằng làng ḿnh cũng có lắm nhân tài” (Muốn ăn trứng nhạn - Đồng quê).

Không nặng phong tục, tập quán, v́ là vùng đất mới, ai cũng mới đến khai phá, dân tứ chiếng dễ xem như anh em, “tứ hải giai huynh đệ”. Nói chung là không nặng nghi thức xă giao, quy tắc ứng xử. Cốt lơi là ở sự chân t́nh, trọng lẽ phải; c̣n th́ b́nh đẳng trong ứng xử, trong quan hệ, trên bàn tiệc, mâm rượu: “- Thằng Phó xă mày lầm rồi, mày há chẳng biết hồi tao c̣n “đương bị hành chánh” mà c̣n không bao giờ “ỷ chúng hiếp cô” hay sao? Huống chi ngày nay đă “cáo lăo hồi gia”, tao càng trọng lẽ phải hơn nữa. Mà hễ vào đám tiệc rồi, ai cũng có tự do đàm luận, làm người quân tử không câu nệ ǵ ráo. Mày không nghe “Quân tử bất oán thiên hề bất vưu nhân” à? (Đạo - Đồng quê).

Nhưng ở một số người già vốn c̣n nặng nghi thức lễ giáo, th́ cũng có những bực bội khó chịu không đâu:

 “Hương ba càu nhàu: “Cái làng ǵ mà ḱ khôi quá! Các ông nghĩ: Làm cha mẹ, ai cũng muốn cho con nó được nên vợ nên chồng, đàng này họ mảng bo bo mấy cái hủ tục bắt bẻ từ chút, đ̣i hỏi từ cái lễ mọn, đă thèm rồi mới chịu gả con gái...”.

- “Chịu gả” mà có xong cho đâu! Đây để tới lúc ḿnh tới rước dâu rồi chú coi, chém chết ông Bái hay ông tộc trưởng bên ấy cũng “vặn anh Cai Sót đủ điều...” (Trao thân con khỉ mốc! - Đồng quê).

Có một thực trạng đau ḷng ở vùng quê Nam Bộ, do chính t́nh trạng thiếu học gây ra, là nạn mê tín, dị đoan, cả tin vào bọn ông đồng, bà cốt. Bọn này, một thời cũng là một thế lực chèn ép người dân, ăn bám của dân, bên cạnh bọn hương hội làng xă. Phi Vân cũng không bỏ qua mảng tối này của bức tranh nông thôn Nam Bộ: “Nhưng một tháng sau, chúng tôi đă “quen nước quen cái” với xóm Rạch Cóc. Cóc đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn là thầy Rùa, thầy Pháp, ông Đồng, bà Cốt, cô Tư, cô Hai, cô Bảy. Các bạn đừng thêm: cô Năm Bến Tre, cô Ba Cần Thơ... coi chừng cái cần cổ: mấy cổ vặn họng th́ không khéo phải tốn một con gỏi...” (Châu Xương, cử thanh long đao! - Đồng quê).

T́nh trạng bóc lột dân nghèo đâu đâu cũng diễn ra theo một quy luật: công rẻ mạt, vay nặng lăi; ăn trước ít, trả sau nhiều, nên dần dà người lao động bị cột chặt vào đời sống của giới điền chủ. Đời sống của bọn bóc lột th́ quá sung sướng; c̣n phận của người làm thuê th́ quá đói nát. Ư thức phản kháng ở người dân quê Nam Bộ nhiều khi không cao, do thiếu nhận thức và lí luận; bọn quan trên th́ “quan liêu, ăn hối lộ”. Bởi đó, bọn hội tề làng xă càng có điều kiện lộng hành, hống hách, muốn đổi trắng thay đen thế nào th́ tùy ư. Phi Vân đặc tả t́nh cảnh này chỉ bằng vài chi tiết nhưng đủ để khái quát về t́nh h́nh nông thôn Nam Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945:

 “Ông hội đồng ḍm quanh, rồi cúi đầu kề vào tai thầy hương quản nói những ǵ không ai nghe được. Thầy hương quản gục gặc đầu. Xong, ông bước vào pḥng mở tủ, cầm một xấp giấy bạc kêu phó hương quản và hương tuần vô nhét vào tay một người một mớ và dẫn ra ngoài.

Một chập sau, dân B́nh Thạnh ngơ ngác thấy cai tuần hấp tấp đi bắt ông giáo Thiện lôi về xô nhào xuống một ghe riêng, mặc cho ông kêu la nguyền rủa.

Ông hội đồng cũng thay đồ xuống tam bản ngồi kèm bên khạo Lành thủ thỉ:

- Mầy cứ khai như thế... Tao t́m thế cứu cho... nếu rủi mầy có bị tù, tao cấp dưỡng cho vợ con mầy đến ngày mầy về được...” (Đất bằng sóng dậy - Dân quê).

C̣n t́nh yêu ở những đôi trai gái Nam Bộ th́ toát lên nét chân t́nh, thủy chung sâu nặng, như đôi “Tâm - Quyến” (Dân quê), đôi “Giác - Nhạn” (T́nh quê), một đôi th́ có chút học vấn, c̣n một đôi th́ thuần nông. Cả hai chàng thanh niên đều thuộc giới dân nghèo; c̣n hai nàng thiếu nữ th́ xuất thân trong gia đ́nh khá giả, nhưng vốn có bản chất hiền lương. Cả hai đều coi trọng phép tắc gia đ́nh, phong tục làng xă, nhưng cách ứng xử của đôi nam nữ có học th́ có nhiều linh hoạt hơn: họ có thể tỏ t́nh qua thư, mạnh dạn tỏ t́nh qua cái hôn, nhận thức được bản chất vấn đề của nhiều sự việc, nên họ cũng có những hành xử năng động hơn trong cuộc sống, trước khi Cách mạng đến đổi đời cho họ.

Giác th́ bị bỏ tù v́ bị hàm oan: “Hai năm qua... trong lúc Giác ngồi cú rũ nơi khám đường để đền tội nghèo nàn, không thế lực, th́ cuộc cách mạng dân tộc đă nổi lên, và khói lửa lan tràn khắp dải đất yên tĩnh lâu đời này” (T́nh quê). Nhưng Tâm th́ chủ động đến với nhà tù bằng một việc làm cao cả, là đốt hết giấy nợ của ông hội đồng để xóa nợ cho dân nghèo, bằng việc chủ động chỉ huy dân nghèo có một hành động chống trả tự phát, nhưng cũng cực ḱ có ư thức: “- C̣n vụ khui lẫm lúa của ông hội đồng, th́ cho tôi xin. Anh em nên nhớ rằng: Phó hương quản Thành thế nào cũng đi báo cáo. Và thế nào trưa nay hoặc chiều nay, chánh hương quản hay c̣ bót cũng không chừng sẽ vào đây bắt bớ chúng ta... nhất là tôi. Chúng ta chia lúa, tức là chúng ta thất thế. Ông hội đồng... sẽ vu cáo rằng chúng ta đến đây để giở tṛ cướp bóc. Cần ǵ, chút nữa tôi sẽ tặng cho anh em một món quà quư giá hơn mà cũng là để kỉ niệm ngày tôi từ biệt anh em để đi vào đường tù tội... Anh em bằng ḷng chớ!” (Phút sống hùng - Dân quê).

 

2.5. Ngôn ngữ mà Phi Vân dùng trong ba tác phẩm: Đồng quê, Dân quê, T́nh quê, tuy có đôi từ ngữ làm cho người ở các vùng miền khác khó hiểu, như “con gỏi, ngách, trấp, rặt mùi, thẳng, cỏn...”; nhưng nh́n chung vốn từ ngữ Nam Bộ được ông sử dụng thích hợp đă làm cho bức tranh quê của ông đậm màu sắc Nam Bộ hơn. Có thể kể ra đây hàng loạt như: ai dè, ảnh, ăng kết, ất giáp, ậy, ba, bà cậu, bảnh, bển, bịnh, bóp đầm, bông cỏ, bông phướn, bông rua, bùng binh, cà lang, cá kèo, cào cào châu chấu, cắc, cắn, câu kéo, cây da, chén, chẹt, Chệt, Chệt Sơn Đông, chiến, ch́m xuồng, chơn, chúa nhựt, con gỏi, con mẻ, dân Năm Căm, dừa nước, ḍm, dợm, dượng, dượng mụ, đau, đèn Huê Ḱ, đờn, đờn ḱm, gây lộn, ghe hát, ghe lườn, giàn thun, giấy con công, hát bóng, heo, heo cấn, hỉnh mũi, hóc Bà Tó, ḥm, hươi, khóm, kiếng, kiếng linh, kinh, Lèo, lỏn chỏn, lóng, tội, má, mảng, mắm, mần, miệt, miệt trên, mồi cắt, mồi chạy, nằng nằng, ngách, nhà mát, nhểu hột, ô rô, ông tướng, ổng, qua, ra quô, rạch, rắn mối, rặt  mùi, ṛng, tằng khạo, thằng lằn, thiềng thị, thương hồ, ṭ tí, tốc lực, trà, trạo, trấp, un, va, vẹt, vinh diệu, xe đ̣, xe hơi, xôm, xúp lê...

Văn viết của ông thường là những câu ngắn gọn, trong sáng rơ ư. Đôi khi ông đưa vào trong truyện, những câu ca dao, những câu ḥ, vè đối đáp Nam Bộ, những câu nói thường gặp trong đời sống thực, mà nhờ vậy văn phong của ông đậm chất Nam Bộ, hơn những nhà văn Nam Bộ viết về Nam Bộ khác đương thời và sau này.

3. Người ta gọi Phi Vân là cây viết tiểu thuyết phóng sự, có lẽ v́ tác phẩm của ông có dung lượng nhỏ, không chú tâm vào những vấn đề có tính lí luận, như: kết cấu, h́nh tượng, điển h́nh... Tác phẩm của ông có thể ví như một bức tranh nông thôn sống động với những nét chấm phá đơn giản nhưng đă phản ánh được tính chân xác của thực tại dưới cái nh́n của một nhà báo chuyên nghiệp hơn một nhà văn. Sự nghiệp của ông là sự nghiệp báo chí, nhưng tên tuổi của ông lại được biết đến ở sự nghiệp văn chương nhiều hơn. Ba tác phẩm về vùng quê Nam Bộ: Đồng quê, Dân quê, T́nh quê đă tạo nên tên tuổi Phi Vân, trong đó Đồng quê là bức tranh về vùng quê sông nước mà tôi yêu thích từ ngày c̣n nhỏ./.

 

TS Huỳnh Công Tín

Đại học Cần Thơ