Bức Tranh Sen-Lê
VITA
Vợ chồng anh Bảy Đức thật giàu con!
Đứa nầy vừa mới biết đứng
chựng lại tiếp theo đứa khác lọt lòng,
oẹ-oẹ. Cứ sinh năm một như thế đã
được một chục đủ đầu
rồi mà chị Bảy vẫn còn bền gan ốm-nghén,
hôi cơm tanh cá, ụa mửa vang nhà. Đã vậy, phụ
vào số đó, hai đứa nhỏ song thai của
một góa phụ hàng xóm để lại mới vừa
dứt sữa. Hiện giờ, hai vợ chồng có cả
thảy vừa gái, trai mười bốn cục nợ
đời ruỡi. Anh Bảy muốn dễ kêu tên mới
đặt bắt vần: Tàu, Bè, Thuyền, Cột,
Đỏi, Neo, Lèo, Lái, Be, Chèo, Buồm, Lạt, Giầm,
Khoang...
Ngày chí tối anh Bảy ra công đốn cây, bửa
củi, đào mương, vét hào, câu, nò tở-mở:
chị Bảy, ngoài việc bếp núc, đi thụt cá
bóng-kèo, bắt còng, xúc tép. Vợ chồng làm- lụng
vất-vả quanh năm, chạy ăn sói trán, nhưng
đàn thằng-bè con nuốt cũng chưa phỉ bầu-
diều. Thấy chúng ăn ta ngỡ cào-cào phá lúa ...
Xem chừng mặt trời lên khỏi vuông tre, chị
Bảy lui-cui dọn ra trước hiên một cái trã-ba
vun-chùn với một cái chảo gang to thế,
đặc-gật tôm rang, đầu râu nguyện-vẹn.
Chị chưa kịp bới cơm vào chén, có đứa
chu-chéo kêu lên ''đói quá! đói quá'' rồi thò tay bốc càn
một chùm tôm dính xà-nẹo cùng mấy con khác. Đứa
kia thấy vậy, đâm ganh, khẻ tay em, mắng sao có
hỗn-hào, đoạn tự-tiện vói bứt vài con
lủm. Đứa nọ phân-bì, chụp cả nạm
rối lòng-thòng, toan thồn vào miệng bỗng bị
chận cổ, trào ra. Rồi cả thảy
hỗn-loạn áp bổ đũa lên đầu lẫn
nhau lốp-bốp, ré khóc, chữi-rủa dậy làng. Anh
Bảy não-nề, quát:
-Quỉ phá nhà chay hử ? Thôi nghe! Tao đập
hộc gạch bây giờ ...
Và nhìn các chiến sĩ hung-hăng, chẳng rõ
nghĩ-ngợi gì, anh Bảy nhe răng, cười
thầm, gải đầu khô, gào xuống trắng-giả
như mưa. Đôi khi, thấy chúng không đếm
xỉa tới cha, chị Bảy hiền-lành, xen vào, la
dứt với giọng van-lơn :
-Thôi mà ! Khổ lắm, các con ơi ...
Chúng ngững trông vẻ mặt thuần-hậu và
buồn-bã của mẹ mới chịu ngưng chiến,
xếp gậy tre, đâu về chỗ đó. Chị
Bảy bới cơm xong, anh Bảy ra hiệu-lệnh
''chèo''. Tức thì, chúng chụp đũa lẹ-làng,
mạnh ai nấy giành, lùa cả búng, nuốt càng cơm
nóng, bất kể nghẹn. Có đứa láo ăn, dộng
một lượt ba bốn con tôm mặn chát vào mồm,
mắt trợn trắng, mũi-dãi lòng-thòng, báo-hại
chị Bảy mất công kéo ra, móc họng. Một lát sau,
vét gần lủng đít nồi, chúng gieo cơm như
mạ, bỏ vãi-chài, đoạn tiến lại khạp,
tranh chiếc gáo dừa múc nước, đấm đá
nhau ành-ạch. Rồi lại chửi-bới, rồi
lại khóc-lóc, rồi lại xáp chiến, lung- tung-beng
chẳng kể quân-thần, phụ-tử...Anh Bảy
vẫn não-nề, vẫn quát :
-Thôi nghe! Tao đập hộc gạch hết bây
giờ ...
Rồi cũng cười thầm, cũng gải
đầu khô, gào xuống trắng-giả như mưa.
Còn chị Bảy cũng xướng đồng một
điệu:
-Thôi mà! Khổ lắm các con ơi ...
Xáp trận đã nư xong, chúng chia nhau từng
tốp tản-mát khắp nơi. Chị Bảy ngồi
trước đống chén dĩa sứt mẻ, đút
cơm cho hai đứa con nuôi. Đoạn, còn, hai vợ
chồng ăn; hết, hai vợ chồng nhịn.
Ấy thế, ngày nào như ngày nào, cơm nước
xong, cả thảy phơi thân trần-truồng năm tháng
dưới nắng mưa, đi mất dạng, tốp
nhảy đùng xuống rạch, tốp dạo xóm, tốp
vào miễu ngủ, tốp mò chem-chép, tốp leo cây. Thả
ta-bà cho đã đời rồi bao giờ thấy bụng
đói, không đợi ai kêu réo, mười hai vì tinh-tú, mang
mình chồn-hôi, cáo-cộc về đông-đủ tựa
thiện-nam tín-nữ trẩy chùa rằm tháng bảy.
Chị Bảy đầu tắt mặt tối,
thời-giờ đâu dư để chăm-nom tắm
rửa hoặc lo sức-khỏe cho con. Tuy nhiên, chúng
vẫn ăn chơi, mạnh giỏi. Độ nào,
thằng Buồm trúng thực ói mật xanh, nóng vùi, nằm
chèo-queo dưới sàng bà Năm-Lê từ chiều tới
sáng, nhưng chị nào có hay. Cũng tội! Chị
công-việc bộn-bề, đầu đội, vai mang,
chân trèo, tay xách, hơi đâu kiểm-điểm
đạo binh hung-hậu ăn có ó không ấy! Nhưng
chả sao, trưa lại, thằng Buồm lơn-tơn
về, miệng nhai ngổm-ngoảm một cái bánh-ếch
khổng-lồ nhuân dừa của ai cho nó. Và khỏi
phải thuốc thang, chị Bảy ra sau hè đào gừng
cho nó nuốt trọng với muối, hớp nước
ao. Tự-nhiên, qua hôm sau, tứ chi, ngũ tạng, lục
phủ, mach-lạc đều thong, thằng Buồm
phục-sức, chạy có cờ .
*
*
*
Tuy ngèo tiền-bạc, vợ chồng anh Bảy
Đức giàu con, giàu nhân-đạo. Thương con mình,
lại thương con người dưng, họ thà
chịu cực chẳng thà đợ con nuôi miệng.
Hơn nữa, anh Bảy có một gia tài vô-giá mà từ
bực vua-chúa tới hạng sang giàu muôn hộ chưa
chắc có được. Chính vì của quí-báu đó nên
đời anh khổ-sở lầm-than. Bậy thật! Nhè
có thứ đồ quan yêu , phú hào chuộng, thèm nhểu
nước dãi, tài nào khỏi mang họa vào thân!
Anh Bảy có một bức tranh thủy-mạc sen-lê,
của tổ-phụ để lại. Giai-tác ấy do
một họa-sĩ vô-danh vẽ hồi cuối
đời Thanh, nước thuốc thắm-tươi,
trông tựa cảnh thiên-nhiên linh-hoạt. Hình như
hoạ-sĩ đã đem cả tinh-thần, tài-nghệ
truyền vào đó cho nên nó mê- hoặc làm sao, nó
quyến-rủ cách nào mà anh Bảy đủ can-đảm
chịu bần-cùng nhưng không đủ can-đảm
ngửa tay đổi lấy một nghìn đồng
bạc lớn! Anh Bảy mê nó có lẽ còn hơn Trụ
vương mê Đắc-Kỷ. Đứa con nào rờ
tới, dầu cưng thế mấy, anh cũng quất
thấy mồ tổ ông cha. Chị Bãy đã một lần
vô-ý bưng chén chè nóng để gần làm nó thấm-ướt một
chút xíu mà anh khóc mướt, đòi tự vận. Cuốn
tròn bức sen-le cất trong tủ đứng,
thỉnh-thoảng, chờ ngày lành vào khoảng trưa, anh
Bảy đem ra treo trên bàn thờ, rồi anh khép cửa
để bóng nắng lùa vào lờ-mờ, gió thoảng
hắt-hiu, bức tranh xao động; anh mới ngồi
dựa trường-kỷ, tay cầm chén chè
Đại-hồng hơi lên nghi-ngút, mắt ngắm-nghía,
tơ-mơ ...Anh Bảy tưởng thấy một
bầy le-le tung-tăng trên mặt nước
gờn-gợn, giữa những búp sen ửng đỏ
rung rinh thảo nét ''rồng bay, phượng lộn''
xuống lá sen màu xanh sậm lung-lay trên ngấn nước
xanh lờ. Anh Bảy mê quá đi mất! Đôi khi không
muốn riêng hưởng một mình, anh chạy kêu cho kỳ
được vợ và thằng Tàu, con Bè lên xem. Thằng
Tàu chẳng hiểu khỉ-khô gì, nghe cha khen nứt-nở,
phụ họa theo, la ''Á ngộ quá ta!''khiến anh Bảy
khoái tỉ-tê cả thớ tâm-hồn, xác thịt.Vì bức
tranh, anh Bảy được thầy Cai Ngữ đem
lòng yêu-chuộng. Mặc dù là dân canh, thầy cũng mời
chung ăn uống. Thầy khét tiếng là con cọp ở
quanh vùng. Hương- chức thoáng thấy dạng thầy
đã ríu-ríu cuối đầu. Còn dân-dã chỉ tìm
đường lánh mặt, hoặc rủi gặp lỡ
giữa đường, họ cóm-róm, lột khăn xá
mọp. Ai không nể một ông quan-con thường bắt
tay quan-lớn với nụ cười thân mật? Thế
mà thầy cai Ngữ lại ra chiều niềm-nỡ
với một tên cùng-đinh, áo đống phèn, để
lòi cả bụng. Rõ vinh-hạnh chết đời anh
Bảy!
Lần hồi thầy cai Ngữ giao ruộng cho
vợ chồng anh Bảy làm. Họ thiếu hụt,
thầy xuất tiền cho mượn thay vì theo
người khác, phải trả lời kép. Sợ vợ
chồng anh Bảy nghi-kỵ lòng tử-tế của mình,
thầy nhìn bà con với chị Bảy hồi đời
cao-tằng cố-tổ, cho nên chị cảm-động
vô-cùng. Mùa nào lúa góp rồi, thím Cai cũng cho thêm hai giạ
và thỉnh thoảng hay lui tới chuyện trò ra chiều
thân-mật. Và chẳng bao lâu, thầy cai lại đưa
một trăm đồng để anh mua cặp trâu cui
của ông tư Tý.
Làm đâu dược ba năm lien-tiếp,.. anh
Bảy thấy còn nghèo hơn xưa. Cứ một trăm
giạ phải đong cho chủ điền hết sáu
chục giạ; còn dư bốn chục giạ để
xây-xài trọn năm với một gia-đình đông-đúc như thế, tài nào không mắc
nợ nần? Rồi cặp trâu lại về thầy cai,
đã vậy còn thiếu thêm bốn trăm bạc tiền
thuế đất và nhà có kỳ-hạn. Vợ chồng
anh Bảy bắt đầu khổ. Cả ngày, họ
ngồi khoanh tay rế, vợ ốm, cổ lòi gân xanh,
chồng ngồi cú-rũ, gải đầu gào bay trắng
giả. Buồn-rầu lui tới họ luôn...
Bấy giờ thầy cai Ngữ bắt đầu
thật-hiện khát-vọng mình ấp-ủ từ lâu.
Một hôm thầy Cai mời anh Bảy lên định
đưa thêm năm trăm, cố tâm muốn xiết
bức sen-le một cách ôn- hòa. Thầy phân-trần hơn
thiệt:
-Anh Bảy nghĩ lại coi...Bề nào cũng bà-con,
anh để lọt vào tay kẻ khác cũng uổng.
Vả lại, về tôi, bức tranh còn là bao giờ anh làm
ăn khá, anh chuộc lại, có hề-hấn gì? Chớ anh
cất trong tủ lâu ngày sợ e dán nhấm, mọt ăn;
chi bằng anh đưa tôi gìn-giữ di-tích của ông bà và
hơn nữa, tôi cũng là nhà tai mắt, ăn trên ngồi
trước, quan quyền thường lui tới, chẳng
những anh làm cho kiếng họ nhà ta được
thơm danh với đời mà tôi cũng nở mày nở
mặt với người ta nữa .
Anh Bảy ra về, nằm vắt tay lên trán
nghĩ-ngợi suốt đêm. Nghe lời vợ giác-đát,
anh đem dâng bức sen-le. Anh bảy khờ-khạo cho
thầy cai tử-tế, chớ anh có ngờ đâu nhà giàu
đưa ra cái gì cũng đã nghĩ rất chin lắm
rồi và luôn luôn cử-chỉ không hồn-nhiên của
họ, dầu trong việc phước-thiện, cũng
phưởng-phất mùi tư lợi. Ấy thế
nhờ đem con tép nhử con tôm, thầy cai Ngữ, vài hôm
sau, đã làm chủ vĩnh-viễn bức sen-le vô giá.
*
*
*
Thầy cai Ngữ đem tranh về lộng kiếng,
mgắm-nghía, hài lòng. Thầy làm tiệc linh- đình ăn
mừng, mời ông quận, bạn thiết và
hương-chức cùng các bực phú-hào đến dự
để thầy có dịp khoe của báu. Ông trước
hảo săn gái đẹp, và ưa khai-khẩn vợ
nguời, ông sau mới đáo-nhậm thích chài đồ
xưa và hay nuôi hạm : cha mẹ dân rõ mang nhiều
tật-bệnh kỳ-thú, hiểm-nghèo khiến làng xóm lo
rầu thúi ruột! Thấy bức sen-le, ông phủ trở
về nhà phát cảm nặng, dã-dượi
tương-tư, bỏ phế việc quan. Đêm đêm,
ông tưởng bầy le-le và dám sen, ngó trắng búp mũi
viết, cánh hường, trằn-trọc mãi. Ông ký
Vạch, cánh tay mặt của ông phủ, chài lưới có
nhau, hiểu rõ nguồn-cơn, mới bày mưu-kế :
-Quan-lớn không muốn, chớ muốn thì dễ
ợt ! thầy cai dưới quyền quan-lớn,
quan-lớn cứ nài lại bức tranh, thầy vị
nể dám đâu từ-chối. Ví bằng thầy không
để, quan-lớn sai lính đòi chừng đôi ba phen,
giả-vờ giận-dũi. Tự-nhiên thầy sợ
sẽ có nguy-hại chức-tước mình; hễ
chức-tước mất, thầy ra rơm, còn gì thể
diện! Một tên lem-nhem ba lá mít mới vừa
được quan lớn cất nhắc lên tới
bực thầy cai, ngồi trên cổ làng, nghĩ cũng
chẳng dễ đâu, quan lớn
ạ. Những tụi dốt học làm sang, chỉ
sống tùy tước-phẩm. Bán nhà, cố ruộng,
thậm-chí đến con gái họ, họ cũng hy-sinh
miễn có chút để lòe, để dọa nạt
mấy thằng dân đen, là vinh-hạnh. Vậy, muốn có
bức tranh hay không là tùy quan-lớn chớ nào phải tùy
nơi thầy cai Ngữ ...?
Ông phủ gật đầu, cười
chúm-chiếm. Và ngày hôm sau, y kế thầy ký, ngài thi-hành.
Thầy cai ban đầu dụ-dự, nhưng sau khi ông ký
tới nhà phân trần lợi-hại, thầy cai bóp
bụng tặng không bức tranh cho quan-lớn mặc
dầu ngài cố nài-ép trả tiền. Kết cuộc, ông
phủ hả-hê, thầy cai đau quặn ruột,
thầy ký được thưởng ba trăm để
đền-bù công lao mưu-sĩ quạu ...
*
*
*
Thầy cai tiếc bức tranh, rầu mất
của. Chợt thầy nhớ tới chuyện dùi đánh
đục, đục đánh săng, thầy tính đem
vợ chồng anh Bảy ra cạy gỡ. Thầy cho
vời anh Bảy tới, thầy nói:
-Nếu bức tranh ấy không vào tay tôi, anh cũng
chả gìn-giữ được. Thì ra, khi không tôi chịu
thiệt thế cho anh. Vậy, anh Bảy nên hiểu
chỗ đó mà hồi lại năm trăm đồng cho
tôi, để mỗi người gánh phân nữa.
Anh Bảy Đức làm thinh gải đầu gào
xuống như mưa. Thầy cai Ngữ sốt ruột,
gắt-gỏng:
-Sao? Anh tính sao?
Anh Bảy , lần tay gải ót, ngó xuống thưa :
-Bẩm thầy, tiền đâu còn...
Thầy cai vỗ bàn, thét:
-Chớ mới đưa cách đây chưa
đầy một tháng, anh làm gì hết? Hay anh muốn sang-
đoạt của tôi ? Tôi nói thật : ai mà ...
Vợ thầy cai đang khện con ở dưới
bếp, vùng chạy lên, khuyên dứt :
-Thầy sắp nhỏ sao mà nóng quá! Chuyện đâu
còn đó, anh Bảy tuy nghèo chớ anh rất quân-tử, phải
như ai kiến tài ám nhãn đâu?
Đoạn xây qua anh Bảy, bà cai cố cười
mơn, nói ngọt:
-Chắc anh sợ chị Bảy buồn...Nhưng
không hề gì, anh trả lại rồi một ngày kia, bao
giờ anh muốn làm làng, nhà tôi dắt anh ra quận nói
dễ ợt. Anh sẽ được gần quan, dân-dã kính-vì,
chẳng vinh-hiển lắm sao?
-Bẩm bà cai, tôi rất đội ơn bà cai,
nhưng ngặt một điều là, tôi xin thề có
hoàng-thiên hậu-thổ, tôi không còn một xu dính túi. Năm
trăm thầy đưa dạo nọ, thằng Tám
Hạnh em tôi, nó đã lấy hết lên Sài-gòn làm vốn,
chỉ cho mấy đứa con tôi mười đồng
thôi. Mà nghe đâu, nó đánh gì-dách thua trớt rồi.
Thật em tôi dại-dột quá!
Bà cai xụ mặt, bỏ đi. Thầy cai phùng mang
trợn dộc, la vang:
-Đồ trâu! quân ăn cướp! Về đi!
Rồi bây sẽ biết tay tao ...
Anh Bảy mặt tái như gà thiến, run
lập-cập, cóm-róm Xá thầy cai bước ra .
*
*
*
Năm 1940, Pháp và Đức xáp chiến. Cộng-sản
nổi lên chống Pháp. Nhưng vì lực-lượng còn
kém và chưa thâu-phục được dân-tâm, họ
bị đàn-áp, tiểu trừ. Anh Bảy Đức
đang lui-cui đốn vẹt sau hè, bỗng thấy
một tốp lính, súng ống hẵn hòi, dẫn
đầu là thầy cai Ngữ, áp tới vây nhà và bắt
anh đánh nhừ-tử, đoạn trói ké dắt đi ...
Từ đó, anh Bảy Đức bặt tin luôn.
Mãi đến năm 1945, khi chánh-quyền ở trong
tay nguời Việt-Nam, tội đày ở Côn-nôn
được đưa về quê-quán, chị Bảy
ốm lòi xương, áo quần tơi-tả, hay tin,
dắt đàn con dại ra quận đón chồng. Đúng
sáu giờ chiều, chiếc ghe chài cặp bến, tù-nhân
áo-quần rách- rưới, hao-gầy, mặt vàng lửng,
tay chân thủng, đầy ghẻ-chốc, kẻ ôm
chiếc nóp, kẻ chống gậy, đi hàng hai
dưới bóng hoàng-hôn trông tựa lũ âm-binh, tiến lên
miễu Cô-hồn dùng cơm tối. Có kẻ
được vợ chồng cha con gặp nhau, mừng
khóc mếu-máo. Có kẻ không thấy lại vợ, nhìn con,
tủi phận, nước mắt như mưa. Chị
Bảy Đức cùng đám con đứng nép bên lề
đường nhìn từ người cho tới hàng chót,
nhung không thấy chồng đâu cả. Chị dở chéo
áo lau mặt, lảo-đảo ra về.
Con Mui, sinh sau ngày anh Bảy bị bắt, hỏi
đon:
-Ba là ai đâu, má?
Chị Bảy vùng khóc nức-nở, kể:
-Ba mấy con đâu còn nữa, con ơi !...
2/8-6/8 - 49