Màn trờI chiếu
đất
VITA
Suốt hai đêm rồi , mưa dai và lạnh. Con
nhỏ ''Thái Bình'' ngủ trần, ho bung-bung gần bể
ngực. Thân hình chỉ còn một quần đùi
tả-tơi, nó nằm co rút trong góc chợ Bến-Thành, run
đau và rét mướt. Mình-mẩy hờm-hĩnh, gầy
như cây đinh, bày sườn, tóc rối-nùi, trứng chí
lợp lấm-tấm tựa cám giã. Khuya. Mưa. Gió
lồng-lộng, phố phường yên-tịnh. Thái-Bình
thao-thức, giây giây khẽ rên dài.
Bị biện Tây và lính cảnh-sát xua đuổi, nó
bỏ ga Sai-Gon-Mỹ tho xề qua chợ, ngày đón hành
khách tại bến xe xin ăn, đêm trở lộn
về, trèo lên sập vải bỏ trống, nằm
chèo-queo, mặc tình bầy muỗi chích. Hễ trời
vừa hừng sáng, nghe chuông nhà thờ đổ, nó
giụi mắt ra đi ; tối, sau khi nhà hàng đóng
cửa, nó đáo về. Cứ như thế, đã
được một tuần lễ.
Nhưng suốt hai dêm rồi, mưa dai và lạnh. Con
nhỏ Thái-Bình đau bết-bát, không đi đâu nổi.
Nó lết từ dưới sập nầy sang sập
nọ, bị mấy chị hàng vải chửI-bới,
gớm-nhờm.
Trước kia nó ở với cha mẹ nghèo trong
một chái lá gác theo vách tường, hẻm Dixmude. Cha làm
thợ rèn, mẹ sớm bán cháo đậu, tối
tào-thưng, cả hai chạy ăn trối chết cho gia-
đình sáu đứa, không kể một đứa nữa
chờ bể bầu nay mai, lọt ra, tăng nợ-nần
cho cặp vợ chồng mắc đọa. Họ rất
siêng-năng, rất tần-tiện, nhưng vẫn
thấy thiếu-hụt luôn. Là thợ- thuyền,
đồng lương eo-hẹp, tay làm, hàm nhai, lãnh
được hôm nay, tiền bay hôm sau, lụi- đụi
phải quơ-quàu, vay bợ, mua chịu từ lít gạo,
trả lời bạc đứng, chờ kỳ lương
tới. Rốt cuộc, ngày như tháng, tháng như năm,
áo quần chằm khíu, mảng lo chạy nợ, vợ
chồng chị thợ rèn chưa bao giờ dám ăn
một cái bánh bao nhuân mặn khi thèm miệng.
May nhờ đứa con gái đầu lòng, vừa lên
mười, giỏi-giắn coi trong, coi ngoài, nào giặt-
gịệm, chăn bầy em, lo nồi cơm, ơ cá, nào
gánh nước, mót củi ; chẳng, mẹ bị ràng
buộc trong xó nhà, gia đình cạy đất mà xơi ...
Tuy thiếu-thốn mọi bề, họ
nhẫn-nại sống lây-lất, định-nghĩa vui,
buồn bằng sức-khỏe của bè con.
Bỗng một buổi trưa, tàu bay Đồng-minh
ầm-ầm kéo tới địa phận Sài-gòn, trút mù-
quáng xuống vùng Dixmude cả tấn bom, rỉa đạn
xối-xả, làm cho nhà cửa tan-tành, thường dân già
trẻ, bé, lớn, lớp bị xé thây, lớp chôn vùi
dưới hầm, máu tuôn lênh-láng. Cả nhà anh thợ rèn
thọ nạn, chỉ còn sót lại đứa con đầu
lòng. Trong lúc ấy, nó đang giành hứng nưóc phông-tên
tại chợ Thái-bình. Nhờ vậy, nó thoát khỏi
họa văn-minh của chiến-tranh.
Con nhỏ mồ-côi bắt đầu lang-thang. Không
còn nơi nương-tựa, nó nhập bọn với
mấy đứa trẻ hoang, thả theo những dãy
phố sập, lượm gạch đem đi bán kiếm
cơm. Chẳng ai biết tên tộc nó là gì, chỉ nghe
mấy đứa nhỏ trang lứa nó, mỗi lần
rũ nó đi ''hôi'' gạch, đứng giữa
đường Dixmude, ra ám-hiệu lạ-lùng, gọi :
-Thái-Bình tứa ưa tàn tưa ...
Tự-nhiên con nhỏ ấy trong đống ngói
gạch chui ra, vui-vẻ đáp :
-Tàn tưa ...
Đoạn vầy đàn xí-xô xí-xào, kéo nhau, ra đi,
chân nhảy cò-cò, tay huơi thanh sắt, miệng rập ca
:
''Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng ...
''Kiếm nguồn tươi sáng ...''
hướng về đống tường sụp
đổ.
Sống cảnh màn trời chiếu đất
được trút tháng, không chuyện gì xãy ra ngoài việc
moi ba cục gạch. Thái-bình quen mến cuộc đời
tự-do, sôi-nổi. Chỉ thỉnh-thoảng chợt
nhớ cha mẹ và mấy em chết một cách
thảm-thiết, nó buồn khóc trong khoảnh-khắc
rồi lấy cánh tay quẹt nước mắt, vui đùa
cùng chúng bạn.
Một hôm, đương lui-cui mê cạy gạch
dưới nắng đổ lửa, mồ-hôi
nhể-nhãi, Thái- Bình mắc đám mưa to trở về
hang, ướt loi-ngoi như chuột lội. Đầu
đuôi chỉ còn vỏn-vẹn một bộ đồ
rách-rã, nó cổi vắt thật ráo rồi lại mặc vào
ngủ mòn. Mãi tới sáng, chỗi dậy, nó sổ mũi,
ho-hen và cảm thấy rêm mình. Không cơm cháo, thuốc-men,
bệnh càng trầm- trọng. Hơn nữa, chỗ nó
nằm không được sạch, hơi bốc lên hôi
thúi nặc-nồng. Bên kia đường, dưới chân
một đống rác cao ngùn-ngụn, ngót năm trăm cái
chòi lá, nhốt gần hai nghìn nhân-mạng, dựng chen chúc
quanh lỗ bom nước đọng xanh dờn, chở
đồ dơ, thây súc-vật sình chướng mạnh ai
nấy vất, phụ thêm những gói cứt nổi
lềnh-bềnh, ruồi bu đen- nghẹt ; đố tìm
cho ra một cái chuồng tiêu . Vậy hễ chột bụng,
cứ việc xách trôn ra đóng gạch ...
Sau một cữ sốt-rét, Thái-Bình ngột hơi,
lồm-cồm dậy. Nó nhận thấy mình trần,
chiếc áo của nó, ai tha đâu mất. Nó kiếm cả
buổi mới tìm đươc, gần bên vũng
nước. Thì ra giữa cơn mê sảng, nó bứt áo,
tuột liệng, rồi một nhân-vật nào chẳng rõ,
lúc khẩn-cấp đã tạm dừng giải-nạn. Nó
tức mình, đứng rủa một hồi, đoạn
chiều hôm ấy, bỏ chỗ quen , lần mò ra ga.
Nhưng, nó ở chưa được hai ngày, kế
xãy ra một vụ móc túi . Cò bót tới bố tất
cả bọn ăn xin. Thôi thì, nào bao, nào bị, nào gậy,
nào hèo, một đám thú người khốn-khổ đó,
từ cái lẫn đực, mang chạy có cờ, bạ
đâu lũi đấy . Mắc vạ lây Thái-Bình lỏn
qua chợ, chui đụt mảnh thân hèn.
Thái-Bình đau nhẹp. Nó khát nước, rán sức
lết ra khỏi sạp. Nhác thấy nó thò đầu,
một chị hàng vải đang bưng tô nước
hớp, giật mình, ngỡ ma-bom ốm-tanh
xuất-hiện. Nhìn kỹ, chị phát gớm-nhờm,
ụa, khạc, rồi ó lên :
-Mày cút đi không, hở đồ ôn-dịch ? Tao kêu
lính bây giờ ...
Nó hoảng-kinh thụt mất. Chị hàng vải
rủa láp-giáp vài câu, kế tạt nước dư
xuống sạp, lan-tràn. Thái-Bình khát xé ruột gan, thè
lưỡi liếm ngon-lành những đường
nuớc đọng.
Qua ngày sau, lần-lần Thái-bình bớt rên,
cơ-thể tựa hồ mỏi rục hết hành nó
nữa. Nó nằm xếp-ve dưới sạp, lằng xanh
bu mất mặt. Trong phút cuối-cùng, nó
hồi-dương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ
mấy đứa em mà từ khi gia-đình tan-rã, nó chưa
lần nào nhớ đậm như lúc bấy giờ.,Nó
lại mơ-hồ nghe văng-vẳng như xa, như
gần, như cao, như thấp, tiếng gọi đàn
khi thiết-tha, khi thúc-giục của mấy bạn
đầu xanh :''Thái-Bình tứa ưa, tàn tưa ...''
''Nào anh em ta cùng nhau xông-pha lên đàng...
''Kiếm nguồn tươi sáng...''
Nó vùng mĩm cười. Nó đem hết tàn-lực
nhỏm dậy, toan chạy. Bỗng nó lấy hơi lên,
nấc một tiếng nhẹ-nhàng, buông tuổi xuân
vô-tội theo dõi gia-đình, bè-bạn ...
Một lát sau, bộ xương khô ấy
được chở đi với lời
nguyền-rủa tiễn đưa của chị hàng
vải :
-Đồ quỉ, đồ yêu ở đâu tắp
lại báo đời, đem xui-xẻo tới cho
người ta !...
2-5/7/49