Nhân - Bệnh
VITA
Ta, con số mọn
đối cùng toàn thể,
Sống lẻ-loi, ta sống thiếu
bình-an.
Cây mọc cô-đơn ở tận tiên-ngàn
Gặp giông-gió lớn, gãy cành, trốc
rễ:
Tựa hạt nước bé nằm trong
lòng bể,
Bể cạn nguồn, hạt
nước cũng tiêu-tan.
Thuở xưa, lúc mới xuất hiện loài
người, có bốn anh em trai, cả thảy đều
dị-hình dị- tướng. Mình cao tám thước,
lưng lớn ba vừng, sức mạnh dời non lấp
bể. Cùng chung một giống, một mẹ, một cha,
tính nết hiền-lành, tuy-nhiên mặt-mày khác nhau xa-
lắc. Người anh cả tên Bạch, trắng như
tuyết; người thứ nhì tên Huỳnh, vàng như
nghệ; người thứ bà tên Hắc, đen như
lọ chảo; người thứ tư tên Hồng,
đỏ nhu son. Cha mẹ mất sớm và mặc dầu
có vợ con, họ vẫn sống yên như bát nước
đầy, ăn đồng chia đủ, thương
nhau khắng-khít. Họ không biết nói, chỉ
biểu-diễn tình-cảm hay ý muốn bằng
điệu bộ. Ngày, họ rũ vào rừng săn
cọp, beo, voi đem về lấy thịt, lột da làm áo
ngự-hàn; đêm, chun xuống hang sâu, ngáy vang như
sấm. Ấy thế, ăn lông, ở lỗ, vui
đồng hưởng, khổ đồng gánh, họ
ung-dung tự-toại, kéo cuộc đời chung trong-sáng,
không gợn chút ưu-phiền.
Bỗng một hôm dạo chơi, tại bến
Kim-giang, Bạch tình cờ gặp một con cá Ngân to
lớn, mập núc, vảy chiếu trắng ngời,
đang quạt đuôi nổi sóng lội ngược dòng,
tiến đến chờn-vờn toan nuốt Bạch.
Nhanh-nhẹn, gọn-gàng, Bạch né khỏi, đoạn
nhảy ùm xuống, thò tay gân-guốc, vói nắm đuôi con
thủy quái. Nó vùng-vẫy ầm-ầm trốc cả
nắm vảy nhưng không thoát khỏi. Mừng-rỡ,
Bạch điệu nó vào bãi, kéo xển nó về hang.
Bạch bảo người nhà làm thịt con cá nghìn
cân; rồi vợ, chồng, anh, em, con cháu nhập tiệc,
xem nó ngon dở thế nào. Sướng quá! Thịt nó
ngọt, bùi, máu nó tươi rói khiến họ ăn mãi mà
không hề biết ngán. Chưa đã thèm, họ lại mót
vi, kỳ, vảy, xương nhai rờu-rợu.
Tối đêm đó, họ cảm thấy
người khó chịu, bụng ọc-ạch, mình nóng
tựa thiêu, tim nhảy hồi hộp và lạ-lùng thay! Sáng
ngày họ ngứa miệng, biết nói hết. Họ
bắt đầu lừ-nhữ mỏi-mê, ghiền
thịt con cá Ngân, không làm sao quên được.
Bỏ cả rừng, núi, dẫy-đầy
vật-thực, bao nhiêu mắt quay nhìn ra sông bể. Họ
đợi hai ngày, đói gần rã ruột, nhưng không
thấy nó nổi lên. Thối chí, họ định kéo nhau
ra về, thình lình Bạch nhác thấy con Ngân đang
giỡn bóng mặt trời lặn ngoài khơi. Bạch gọi
Huỳnh, chỉ-chỏ. Huỳnh co giò nhảy phóc, bay là-là
trên đỉnh sóng, đạp lưng con Ngân, cung tay
đấm vào hông thật mạnh. Con cá đau buốt,
hoảng-kinh, lội trối chết vào bãi tựa ghe
bầu chạy vát.
Đứng trên mé, Bạch thèm nhểu dãi, phát
động lòng tham, vùng nhảy đùa xuống, táp con Ngân
hết phân nửa. Mấy người kia giận, nhưng
biết anh đói quá làm hỗn, vùng cười xòa ghê
rợn. Họ đành chia nhau phân nửa còn lại vậy.
Ăn xong, họ kéo nhau ra về chui vào hang sâu rên siết.
Từ ấy, họ bắt đầu điên. Họ
nóng-nãy, dữ-tợn, say máu ngà, đánh nhau đến
nỗi cây ngã, đá lăn, huyết hồng tràn ngập
đất. Càng ăn con Ngân chừng nào, họ càng hung-ác
chừng nấy. Kẻ ăn ít cũng đau, kẻ ăn
nhiều cũng đau, cho tới kẻ hết
được ăn cũng không tránh khỏi.
Rốt cuộc, người anh cả thắng,
bắt mấy em làm tôi mọi. Bấy giờ, tình
huynh-đệ đã tuyệt, Bạch chỉ biết có con
Ngân. Tìm không ra nó, thế nào mấy đứa em cũng
bị ăn đấm mềm xương, nát thịt.
Nhưng dễ gì! Bị động, chúng khôn nhác thấy
bóng người, lặn mất. Mãi rồi chịu hành-hạ,
đói-khát không thấu, ba người em
lần-lượt dắt cả gia-quyến mạnh ai
nấy trốn sang nơi khác. Lâu rồi, sinh cư lập
nghiệp chỗ nào, họ chịu ảnh-hưởng
phong-thổ, khí-hậu chỗ đó; tiếng nói và
tập-tục vì thế khác nhau. Họ quên cội-rễ và
cứ vài năm, tới mùa cá Ngân rộ, họ lại phát
cuồng-tâm, kéo nhau xáp-chiến long trời lở
đất, xô con cháu trong lộ-lạc vào bãi
chiến-trường, thây phơi như rạ.
*
*
*
Thuở ấy, tại hòn Trí-sơn, ở ẩn
một đạo-sĩ tu-luyện nghìn năm có lẻ,
gần thành chánh quả. Một hôm, đang ngồi
tham-thiền, bỗng thấy lòng xúc động.
Đếm lóng tay, ngài mới rõ dưới trần loài
người đánh nhau tróc vẩy trầy vi ...
Thương-hại sinh-linh, đạo-sĩ giao am cho
đệ-tử, xách hoa-lam và bùa, niệt, chí quyết
đơn thân ''tách mình qua Tây thổ'' giải nạn cho
đời.
Đến nơi, đạo-sĩ gặp họ
đang tranh-đấu. Ngài mới xen vào trận-mạc kêu
gọi hòa- bình. Cả thảy đều bỏ binh-khí,
lắng nghe, cảm-động. Rồi Ngài được
coi như là đấng cứu- thế tối-cao, rảo
bước tới bộ-lạc nào, thiên-hạ đón
mừng, chạy theo nườm-nượp. Thâu-phục
nhân-tâm trong nháy mắt, đạo-sĩ mới ra tài
chẩn- mạch. Ngài cho rằng căn bệnh phát tại
quả tim vì Ngài thấy máu bầm đen ứ tại
nơi đó. Ngài bèn dán một lá phù lên đầu mỗi
người, cho trí-huệ sáng-suốt biết phân-biệt
giả chơn. Ngài lại lấy hoa Tâm bảo sắc
thuốc uống, cho hỏa dục-vọng bớt lừng
khiến, họ nhìn nhau biết nhau, mến-thương
đồng- loại.
Nhưng bệnh vẫn trầm-trệ, nguy-nan. Kẻ
vừa mới bớt, lại bị kẻ không bớt
đánh- đập; họ chống trả rồi trở
thành điên cả đám. Và chẳng bao lâu, tới mùa cá
Ngân, họ dở chứng cũ, họ tàn-sát nhau mãi-mãi,
đạo-sĩ khuyên can không nổi. Rồi họ cho
đạo-sĩ là lang băm, xuống báo đời
họ, họ bắt hành-hình Ngài một cách tàn-nhẫn.
*
*
*
Sau khi đạo-sĩ mất rồi, lâu lắm,
từ trên Thổ-sơn, một đạo-sĩ khác
lại giáng thế. Khác hơn ông trước, ngoài
những thức ăn dọc đường, Ngài không mang
theo thuốc-men gì cả. Tới nơi, Ngài được
tiếp-rước rất lạnh-lùng và hơn nữa,
họ hăm bằm thầy Ngài làm chả, nếu
bệnh-căn chẳng tuyệt. Không do-dự
đạo-sĩ nhận lời. Thôi thì, nào già, nào trẻ,
nào bé, nào lớn, ở trong hang bò ra, bu quanh,
đen-nghẹt. Chẩn mạch mọi người xong,
đạo-sĩ cười hả-hả thốt :
-Bệnh của các ngươi gọi là Nhân-bệnh.
Nó phát-nguyên từ dạ-dày, chớ chẳng phải tự
con Ngân hay tim hoặc tự đâu đâu ca>.
Đoạn đạo-sĩ dõng-dạc đứng
dậy hỏi to :
-Bộ-lạc nào xơi nhiều thịt con Ngân
nhứt ?
Bạch thét lên :
-Chúng tôi .
-Tốt. Còn bộ lạc nào xơi thịt con Ngân ít
nhất ?
Ba người kia cùng la rập :
-Chúng tôi .
-Tốt. Vậy hãy nghe kỹ lời ta dặn ...
Im phắc, bao nhiêu bộ-lạc ngóng chờ.
Chẫm-rãi, đạo-sĩ phán:
-Các ngươi ra chân núi hái lá ''Tỳ'' đem vào
đây cho ta .
Giây phút, họ mang về cả đụn.
Đạo sĩ vừa vò lá, vừa giải :
-Ăn nhiều quá, tức cố thực. Cố
thực sinh trúng thực : cực thân. Dạ dầy
nhiệt, hơi nóng lừng lên đốt trái tim làm các
ngươi sốt buốt, hết biết nhân-bản là gì
.
Ngài tiếp :
-Ăn ít qua, tức thiếu thực. Thiếu
thực sinh thất thực. Thất thực : cực thân.
Dạ dày hàn, hơi lạnh thấm lên trái tim làm cho các
ngươi phát lãnh, toan dành thịt con Ngân để
sưởi, cho nên các ngươi, bởi lẽ ấy,
hết biết nhân-bản là gi. Vậy hãy nghe kỹ
lời ta dặn :
-Bộ-lạc đầu ăn nhiều, bệnh
nặng uống bốn lá ''Tỳ'', xơi một phần
tư thịt con Ngân; còn ba bộ lạc sau ăn ít,
bệnh nhẹ, uống mỗi bộ-lạc một
phần tư lá ''Tỳ'' chia nhau xơi ba phần tư
thịt con ngân.
Hồng vụt hỏi :
-Bỏ ăn phứt con Ngân được chăng,
thưa Ngài ?
-Vô-hại, vô-hại. Cứ ăn, Ai cần-dùng ít,
ăn ít; ai cần-dùng nhiều, ăn nhiều, tùy ở
năng-lực của mỗi người, đừng thừa, đừng
thiếu. Như thế, nhân-bệnh sẽ tuyệt.
Nói xong, đạo-sĩ cởi xe đất bay
liền vì sợ có một đám người tham-vọng
hại Ngài như đạo-sĩ nhân-từ thuở
nọ .
Từ ấy, có vô-số người hết điên;
nhưng vì lá ''Tỳ'' đắng, uống vào vật mình
vật mẩy dữ tợn, thêm nỗi mê thịt con Ngân,
còn một số người không dám uống nên chưa lai-
tỉnh.
*
* *
Một hôm, những người lành bệnh trở
thành tín-đồ củ đạo-sĩ, dìu-dắt nhau lên
Thổ-sơn thăm viếng Ngài. Nhưng kiếm tìm
tở-mở, họ chẳng thấy Ngài ẩn nơi
đâu. Sau cùng, họ gặp một đống
xương tàn cốt rụi. Họ chôn-cất rất
hậu, đoạn ngậm-bgùi, trở lộn về .
Và từ đó, mỗi năm, đến mùa cá Ngân
rộ nơi đâu, họ đồng tâm hợp sức
chài. Bộ- lạc nào dư con Ngân, chia cho bộ-lạc
khác thiếu hụt không như xưa kia tham hưỡng
nột mình . Họ hợp thành một thế-giới
thanh-bình, cộng-lạc. Dứt nạn giặcgiã,
người bóc-lột người vô-ý-thức, tay siết
tay, họ ca hát vang rền từ đầu non tới
cuối bể. Họ bắt đầu quan- niệm
cuộc đời chung : Họ tự tin nơi họ và
cũng như đạo-sĩ, sứ-đồ của
hạnh-phúc trần- gian, họ có sống có chết.
Thân-thể họ, và linh-hồn họ, sản-phẩm
của giác-quan, sẽ biến thành cát bụi.
Và, không như một ông yết-ma kia
mơ-tưởng viễn-vông, quên lẫn sự
đời, đại để cho rằng ''cái đáng
kể trong việm là khoảng trống'', họ nhìn vào
thực-tế và nhận thấy chính cái đáng để
trong khoảng trống của việm mới là đáng
kể hơn mà thôi...