Tội Vạ
VITA
Chị Bảy đang
ngồi trên chõng tre cho con bú, bỗng phát khóc kể, có dây có
nhợ. Chị vừa mới hay tin chồng làm phu khuân vác
cho một hãng lớn ở Sài-gòn bị máy ép hộc máu và,
chịu không nổi vết thương nặng, anh tắt
hơi vài giờ sau, trong nhà thương thí.
Chị Bảy tức tối, muốn bồng con lên
đó thấy mặt chồng lần chót. Nhưng, một
là còn non ngày tháng, hai là tiền nong khô-cạn, lại thêm áo
quần tã-tơi rơi miếng, chị Bảy
trước sau chỉ có một chình gạo lứt.
Nghĩ tới cảnh khốn-nạn, mẹ góa con côi, chòi
hư, nóc dột, nghèo-khổ trăm bề, chị tủi
phận mình vô-phúc, rồi chạnh xót thương ai xiêu
mồ lạc mả, chị khóc như mưa.
Tuy-nhiên cái đói xao-lãng cái đau, nhìn cái chỉnh
gạo lưng, chị Bảy dập niềm
cảm-lụy, bò đi kiếm cơm nuôi miệng. Chị
quơ-quào đủ việc lặt-vặt: khi chẻ
củi mướn, khi gánh nước ao, khi xay lúa, giã
gạo cho hàng xóm. Chị cố dành-dụm chút-đỉnh
tiền, mong- mỏi một ngày kia rời ấp Hòa-thuận,
lần mò lên Sai-gòn, tìm biết chỗ chôn anh Bảy.
Hằng bữa, trống vừa trở canh tư,
trời còn mờ sương đượm, chị
Bảy đã lồm-cồm dậy cho thằng Đực
bú xong, để nó nằm trong võng, chị mới sập
cửa, giao nhà cho con Phèn cái, ra đi. Nhiều lúc trưa
trật, mới lộn về giây phút. Gặp phải
chủ khó, chị ở miết tới chạng-vạng,
bỏ thằng Đực đói khát, khóc thôi khan tiếng.
Chị Bảy thật cơ-hàn tận xương!
Nhà nóc lá dừa nước, cất cheo-leo bên mé rạch,
cột, sườn, rui, kèo, toàn bằng tre, vách rơm
bện sình, nứt-nở. Chỉ có một cánh cửa lá
chằm, chống, sập do một cây nạng vẹt.
Phía trong, lan bóng tối om, hiện lờ-mờ
một cái chõng tre xệu-xạo, một chìếc võng u-du,
vài ba chén dĩa, hai nồi đất bé tẻo-teo : Ngoài ra,
không một vật nào đáng giá nơi túp lều bằng
bụm tay ấy. Nhưng muốn biết rõ gia-thế
chị Bảy, cứ nhìn con chó là đủ rồi. Con Phèn
ốm lòi ba sườn, mắt lem-hem, mình lợp ghẻ,
bò-chét và rận, đi hết muốn nổi. Quanh năm,
nó có một chút cốt rụi xương tàn nào mà gặm,
họa chăng, lâu lâu, tình- cờ trúng mối,
được hân-hạnh nhai khu-lẳn vất bỏ
dưới mương: kỳ dư, lết ra
đồng, thỉnh đồ dơ hoặc moi thây sình
chướng. Có một bận, bắt gặp nó tha đầu-lâu
thằng chỏng ngồi xơi ngon lành bên bụi tre,
con-nít đâm khiếp-vía, đặt tên nó là Phèn tinh.
Nhưng chớ sợ! Nó không cắn đâu. Phèn tinh
hiền như bụt và không bỏ chủ vì nghèo ...
*
*
*
Thằng Đực, tuy bú thất-thường,
nhưng không mất sức vì chị Bảy có mạch
sữa dồi- dào, mát-rợi. Chừng nó được
năm tháng, biết trườn, bỏ tay đòi mẹ,
chị thêm một mối lo. Sợ nó té trong cơn chị
đi vắng, chị Bảy buộc một chân nó vào
cạnh giường rồi lắm khi trở về,
chị hổi ôi thấy mình-mẩy nó và miệng nó dính
đầy cứt. Thằng bé đói quá, đụng gì mà
chả nhét vào? Chị Bảy xót thân con bò lăn bò lóc,
nhưng biết gởi nó cho ai ngoài ra con chó?
Chị Bảy đầu đội, vai mang, tay xách,
làm-lụng vất-vả gần trút năm, dành-dụm
được lối mười ba đồng và té ba giạ
lúa mót. Với số tiền nhỏ-nhặt đó, chị
muốn nhín chút ít để sắm mặc cho con và cho mình.
Nhưng vải bốn năm chục đồng một
thước làm sao mua nổi ? Từ mấy năm khởi
đầu giặc-giả, chị vẫn mang chiếc
quần tây ngắn của chồng chị cho và một cái
áo túi, cả hai đã rủ nhau rách teng-beng, hết chỗ
lụi kim. Mà không rách sao được ? Đêm nào chị
cũng dùng nó làm mền quấn con, nước đái
tẩm luôn, chắc như mo-cau cũng mục. Chị
phải lấy giấy dán đỡ nơi nào
cần-yếu cốt để che ''thẹn'' mà thôi.
Dầu vậy chớ có dịp đi đâu, chị
Bảy mới dám mang vào: còn ở nhà, chị cổi ra
để mình trần, mang độc nhất một
tấm bố tời. Còn thằng Đực, sinh sao
để vậy.
*
*
*
Bấy giờ, chị Bảy sẵn
vốn-liếng, định tự-lập. Đêm nằm
chị tính-toan cố tìm một nghề ít vốn, bán
chạy . Bỗng sực nhớ tới ông cả Hên mà
chị gặp hôm nào say chúi đầu xuống ao, chị
Bảy liên tưởng nghề đặt rượu
lậu.
Nhưng chị Bảy sợ tù-rạc. Rồi
chị ngần-ngại, băn-khoăn. Sau rốt, chị
nghĩ ở chỗ hẻo-lánh nầy, chị cho là
thiên-sơn vạn-hải hoặc khỉ ho cò gáy, tào-cáo ở
tận Sài-gòn xa-lắc, làm gì biết nổi, trừ có
người đi mách. Mà chị cũng không mích bụng ai
và thấy chị nghèo hộc-gạch, thương
chẳng hết, ai nỡ nào ...
Ấy thế, chị Bảy yên tâm. Chị bắt tay
vào việc. Nấu trong ba kỳ, chị sắm cho
thằng Đực được một bộ
đồ mach-lô để dành Tết cho nó diện và cho
chị một cái quần vải đen nhục, mua lại
của dâu ông cả. Chị cũng gói cất, chờ
dịp lớn.
Chị Bảy nghèo, người ta khinh, người
ta lợi-dụng: Chị bảy mới vừa ngóc
đầu, nguời ta lại ghét, ganh. Đồng tiền
dễ biến đổi lòng người rất lẹ.
Chẳng rõ ai tố-cáo chị Bảy mà một hôm, đang
ngồi cho con bú, canh chừng trã rượu, bỗng
một tốp ba nguời, súng ống hẵn-hòi, dẫn
đầu một người Âu oai-phong lẫm-liệt, áp
bao vây nhà chị. Chị Bảy điếng hồn, bỏ
con, chạy lủi xuống bụi dừa, không kịp phi-tang.
Một trong ba anh lính đoan lội theo nắm đầu
lôi lên,thoi đá túi-bụi. Chị Bảy mặt
xanh-dờn, mình-mẩy đầy bùn non, run lập-cập,
mang bao bố tời che thân phía dưới, để
lộ thân trên, vú lòng-thòng gai đâm tủa máu, trông tựa
mọi cà răng căn tai ở Bù-đốp. Hai anh lính lo
thâu tang-vật, còn anh kia còng chị dắt đi.
Chị Bảy van lạy khóc-lóc xin tha nhưng vô-ích.
Họ cứ theo luật thi-hành. Chị Bảy vừa
bước vừa ngoái lại, trông thấy thằng
Đực khóc ngất, giơ tay đòi mẹ, chị
đứt từ đoạn ruột. Ông xếp
nóng-nảy gọi lính, thét vang:
-Bảo con súc-vật đó mau lên! Lôi bừa nó đi!
Lính bèn kéo-xển chị Bảy. Comn phèn núp trong
bụi, ngó theo chủ, sủa khàn- khàn kéo giọng tru dài,
tắt tiếng. Chị Bảy nhìn lại đám
người quen biết một lần chót, nuớc mắt
ràn-rụa, cất tiếng rên, kể-lể não-nùng:
-Ai nuôi con... con ơi!