Thử t́m hiểu
đời sống người tiền - sơ sử
trên đất B́nh
Dương qua các di tích khảo cổ
ĐỖ TIÊN
Vết tích của
người tiền sử để lại khá nhiều
trên địa phận tỉnh B́nh Dương ngày nay.
Đó là những địa điểm cư trú và mộ táng
với hàng ngàn hiện vật đă được các nhà
khảo cổ t́m thấy. Các di tích được xác
định niên đại khoảng từ 2500 đến
3500 năm cách ngày nay là các di tích Dốc Chùa, di tích Cù Lao Rùa,
di tích Mỹ Lộc đều thuộc huyện Tân Uyên. Di
tích có niên đại muộn hơn khoảng từ 1800
năm đến 2000 năm cách ngày nay thuộc thời
sơ sử là di tích Phú Chánh cũng thuộc huyện Tân
Uyên. Ngoài ra c̣n có một số địa điểm có
dấu vết của người xưa được phát
hiện nhưng chưa tiến hành khai quật như
địa điểm Bà Lụa thuộc phường Chánh
Nghĩa- thị xă Thủ Dầu Một, địa
điểm Vịnh Bà Kỳ xă Tân Định huyện
Bến Cát, địa điểm Hàn Ông Đại xă Tân
Định huyện Tân Uyên. Những địa
điểm này qua quá tŕnh điều tra đào thám sát đă
thu được một số hiện vật cũng
được xác định niên đại khoảng
từ 2500 năm đến 3500 năm cách ngày nay. Qua các
đợt khai quật và đào thám sát, các nhà khảo
cổ đă thu thập được hàng ngàn hiện
vật nhiều loại h́nh , nhiều chất liệu khác
nhau như các loại công cụ sản xuất, đồ
dùng sinh hoạt, vũ khí, công cụ nghề thủ công, đồ trang
sức, các loại áo quan mộ táng, đồ tùy táng...
với các chất liệu đá, đồng, đất
nung, gỗ... Những di vật hàng ngàn năm bị chôn vùi
dưới ḷng đất hầu hết đều bị
vỡ, bị mềm mủn, bị phân hóa...nhưng
những hiện vật gần như vô tri vô giác đó
đă cho chúng ta biết rất nhiều điều về
đời sống của người xưa trên mảnh đất
chúng ta đang sống hôm nay.
Trong các công tŕnh
khảo cổ ở Đông Nam Bộ và cả vùng Nam
Bộ nói chung, các nhà khảo cổ chưa t́m
được di vật nào mang h́nh ảnh của con
người. V́ vậy chúng ta vẫn chưa thể h́nh dung
được người tiền sử ở Nam Bộ
có h́nh dáng và trang phục ra sao? Tuy nhiên qua các di tích của
người tiền sử được t́m thấy, chúng
ta biết được rằng: đó là những
người có tŕnh độ tổ chức cao và tư duy
khá sắc sảo. Họ đă để lại một
số lượng vật chất khá lớn, một đặc
trưng văn hóa riêng biệt của từng vùng miền
theo vị trí địa lư tự nhiên trong suốt quá tŕnh
sinh tồn hàng ngàn năm. Tất cả những chứng
tích đó đă khẳng định rằng: đă có
một nền văn minh tiền sử từng hiện
hữu trên mảnh đất này.
Tư duy sắc
sảo của người xưa thể hiện khá rơ qua
vị trí cư trú. Di tích khai quật đầu tiên ở
B́nh Dương vào năm 1976 là di tích Dốc Chùa thuộc xă
Tân Mỹ huyện Tân Uyên, là một địa điểm
nằm trên một sườn đồi cao gần sông
Đồng Nai. Di tích Cù Lao Rùa c̣n gọi là cù lao Thạnh
Hội khai quật năm 2003 thuộc xă Thạnh Hội
huyện Tân Uyên, là một cù lao rộng lớn trên sông
Đồng Nai. Di tích Mỹ Lộc c̣n gọi là G̣ Đá
thuộc xă Tân Mỹ, Tân Uyên khai quật năm 2004, là
địa điểm nằm trên khu g̣ cao bên bờ sông
Đồng Nai. Các vết tích đă phát lộ như ở
Bà Lụa, là địa điểm trên một khu
đất cao ven sông Sài G̣n, địa điểm Vịnh
Bà Kỳ cạnh sông Thị Tính, địa điểm Hàn
Ông Đại sát bờ sông Bé. Riêng di tích Phú Chánh nằm
cạnh một con suối sâu, vùng đất trủng
thấp. Di tích này có niên đại muộn hơn các di tích
kể trên từ khoảng 1000 năm đến 1500 năm,
cư dân ở đây đă sử dụng nhà sàn để
ở không cần phải chọn vùng đất cao.
Tại đây các nhà khảo cổ đă t́m thấy một
số cọc gỗ nhà sàn c̣n sót lại. Việc sinh
sống ở những vị trí gần sông hoặc
suối đă cho thấy, họ, những người
sống cách chúng ta hàng ngàn năm trước rất thông
minh. Họ đă chọn cho ḿnh những vị trí vô cùng
thuận lợi để sinh sống và phát triển.
Họ cư trú trên những vùng đất cao ở ven sông
để không bị ngập nước khi nước
sông dâng cao và không bị thiếu nước khi thời
tiết khô cạn. Sông suối là những nguồn
nước vô tận để phục vụ đời
sống sinh hoạt và lao động sản xuất. Sông
suối là nguồn cung cấp thức ăn vô cùng phong phú
như cá tôm cua ốc...Sông mang phù sa bồi đắp vùng
đất ven bờ luôn màu mỡ tươi tốt thuân
lợi cho việc trồng trọt cây lương thực,
rau, củ, quả... Ḍng chảy của
các con sông là một hệ thống giao thông rất tiện
lợi trong việc vận chuyển lương thực,
sản phẩm, đặc biệt là giúp con người
giao lưu với nhau giữa các cộng đồng cư
dân và với thế giới bên ngoài.
Ngoài di tích Phú Chánh
thời sơ sử cách ngày nay khoảng từ 1800 năm
đến 2000 năm, các nhà khảo cổ đă t́m
thấy những cọc gỗ được xác
định là cột nhà sàn. Các di tích cách ngày nay khoảng
từ 2500 năm đến 3500 năm vẫn chưa t́m
được vết tích của nhà ở hoặc một
h́nh thức kiến trúc để trú ngụ. Có thể
người xưa đă dùng hang đá để làm nơi
nghỉ ngơi, che mưa che nắng. Bởi v́ hàng ngàn
năm trước chắc chắn là vùng miền Đông Nam Bộ
địa thế hiểm trở, rừng rậm hang sâu.
Ở khu vực chiến khu Đ hơn 30 năm
trước vẫn c̣n là vùng rừng bạt ngàn và có
rải rác những hang đá nhỏ.
Về trang phục,
chúng ta vẫn chưa h́nh dung được nhưng
chắc chắn hơn 3000 năm trước, người
xưa đă mặc bằng chất liệu vải sợi.
V́ ở các di tích như Dốc Chùa, Cù Lao Rùa các nhà khảo
cổ đă t́m thấy rất nhiều dọi se sợi
bằng đất nung. Đặc biệt ở di tích
Dốc Chùa, dọi se sợi có đến hàng trăm tiêu
bản, được xem là một di tích có nhiều
dọi se sợi nhất trong hàng loạt các di tích khảo
cổ ở Việt Nam. Đến di tích Phú Chánh, sau hơn
1000 năm so với niên đại Dốc Chùa, các nhà
khảo cổ đă t́m thấy hàng loạt di vật
bằng gỗ liên quan đến kỹ thuật dệt
vải như dao dệt, trục dệt, lược
dệt... và có những mảnh vải mục lẫn trong
đất trên bề mặt mộ táng.
Về mặc th́ ta
chưa biết h́nh thức trang phục như thế nào
nhưng chắc chắn là cư dân tiền sử đă
biết làm đẹp bằng nhiều loại trang
sức. Di tích Dốc Chùa có hàng chục di vật ṿng đá
đeo tay hoặc có thể đeo chân cùng một số
hạt chuỗi bằng thủy tinh, hạt chuỗi
bằng đá và bằng đất nung. Ngoài ra ở
Dốc Chùa c̣n t́m thấy loại h́nh khuôn đúc
đồng, trên đó có khắc h́nh vật đúc như
trâm cài tóc, hoa tai, lục lạc... Ở di tích Cù Lao Rùa và
Mỹ Lộc cũng t́m được một số di
vật ṿng đeo tay bằng
đá với một kỹ thuật mài giũa khá tinh vi cùng
hàng loạt các phôi ṿng đang trong quá tŕnh tạo tác. Di tích
Phú Chánh không t́m thấy trang sức nhưng t́m
được những di vật phục vụ cho
việc làm đẹp như lược gỗ,
gương đồng, loại gương “ tứ nhũ
tứ ly” thời Tây Hán ở Trung Quốc khoảng thế
kỷ I sau công nguyên.
Về ăn uống,
cư dân tiền sử đă ăn thức ăn nấu chín
qua việc nấu nướng bằng các loại nồi
bằng đất nung. Ở di tích Dốc Chùa cũng
như Cù Lao Rùa các nhà khảo cổ đă phát hiện
nhiều dấu vết của bếp lữa qua những
lớp tro than để lại. Trong tất cả các di tích khảo
cổ được khai quật ở B́nh Dương
đều phát hiện nhiều loại nồi bằng
đất nung và một ít di vật mảnh cà ràng, một
loại bếp ḷ sử dụng trên sông nước.
Thức ăn chủ yếu là thịt thú rừng, tôm cá
dưới sông, các loại hoa quả, rau củ có sẵn
trong tự nhiên và có thể họ đă trồng lúa
nước (?) hoặc các loại lương thực khác
bởi có sự ưu đăi của thiên nhiên và đất
phù sa màu mỡ.
- Đời sống kinh tế - xă hội.
Người tiền
sơ sử ở B́nh Dương đă có tŕnh độ
tổ chức cao trong cuộc sống kinh tế – xă
hội. Họ sống quần cư theo từng cộng đồng,
có sự sắp xếp, tổ chức trong lao động
sản xuất và có vẽ như đă có sự chuyên môn hóa
trong hoạt động ngành nghề. Hoạt động
kinh tế chủ yếu của họ là hoạt
động nông nghiệp. Việc t́m thấy rất
nhiều công cụ sản xuất ở tất cả các
di tích tiền sử như ŕu, cuốc nhiều kích
thước khác nhau, cho ta h́nh dung được
người tiền sử đă sử dụng chúng
để khai phá đất đai trồng trọt.
Trong điều kiện
tự nhiên của vùng trung du Đông Nam Bộ nhiều sông
suối, khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa
mưa nắng rơ rệt, việc phát triển nông nghiệp
trồng trọt để cung cấp lương thực
là điều hiển nhiên. Ngoài ra trong các di tích khảo
cổ c̣n t́m thấy hơn trăm ngàn mảnh gốm
từ nhiều loại h́nh khác nhau và nhiều kích
thước khác nhau như b́nh, hũ, chum, ṿ... có những
cái rất to có thể là đồ đựng lương
thực, thực phẩm để sử dụng và dự
trữ. Trong không gian sinh sống giữa hệ sinh thái
rừng mưa nhiệt đới, rừng núi bạt ngàn
nhiều chim, thú, sông suối nhiều cá, tôm... th́ việc
khai thác nguồn lương thực tự nhiên cũng
chiếm vị trí không kém phần quan trọng trong cuộc
sống lao động sản xuất như săn bắt
thú rừng, đánh bắt cá, hái lượm rau quả,
đào củ rừng... Các loại vũ khí được
t́m thấy như mũi lao, mũi giáo, mũi tên và hàng
trăm ḥn bi bằng đất nung có hầu hết ở
các di tích khảo cổ, ngoài ra ở các di tích như Cù Lao
Rùa, di tích Phú Chánh c̣n phát hiện một ít xương và
răng thú rừng như hươu, nai, voi... là những
vật chứng hết
sức thuyết phục cho hoạt động săn
bắt, hái lượm của người xưa.
Để cung cấp
các loại công cụ sản xuất, vũ khí và các
loại đồ dùng sinh hoạt phục vụ
đời sống, người xưa phải chủ
động phát triển các ngành nghề thủ công như
chế tác công cụ, se sợi dệt vải, sản
xuất đồ gốm, đúc đồng, làm đồ
trang sức...
Qua các di tích khảo
cổ, các nhà khoa học đă nhận thức
được cấu trúc ngành nghề của từng
cộng đồng hoặc từng nhóm cư dân cụ
thể nhưng chưa thể chứng minh được
là có sự phân công lao động trong mỗi cộng
đồng, tức là hoạt động ngành nghề tách
khỏi hoạt động nông nghiệp. Bởi trong các di
vật t́m thấy ở mỗi di tích đều có dấu
tích của nhiều ngành nghề, có thể các nghề
thủ công ở đây vẫn c̣n mang tính chất tự
cung tự cấp. Tuy nhiên nếu nh́n tổng thể các di
tích th́ có những đặc trưng riêng về một
hoặc vài loại h́nh di vật có một số
lượng đáng kể trong mỗi di tích mà không có
hoặc có thật ít ở di tích khác, điều đó làm
chúng ta đặt ra câu hỏi phải chăng đă có
sự chuyên môn hóa ngành nghề sản xuất trong xă
hội của người tiền sử?
Các di vật ở di
tích Dốc Chùa ngoài các loại h́nh công cụ sản
xuất mà hầu hết đă có dấu hiệu sử
dụng cùng nhiều mảnh gốm, một số ít bàn
mài, một ít ṿng đá đă hoàn chỉnh và không nhiều
các di vật đang tạo tác, th́ nổi bật nhất là
loại h́nh dọi se sợi bằng đất nung với
hơn 400 tiêu bản nhiều kiểu dáng. Đặc
biệt ở di tích Dốc Chùa có rất nhiều khuôn
đúc đồng, trong đó đa phần đă vỡ,
nhưng c̣n những di vật nguyên khắc rơ h́nh các vật
đúc như ŕu, lưỡi giáo, mũi tên và những
vật có h́nh dáng như trâm cài, hoa tai, lục lạc... cùng
một số sản phẩm đồ đồng như
ŕu, lưỡi giáo, lưỡi qua, lục lạc,
tượng thú (chưa xác định loại động vật),
một vài vật h́nh sừng không rơ loại h́nh và một
số quả cân có lẽ là để cân hợp kim trong
kỹ thuật đúc đồng?
Ở di tích Cù Lao Rùa, di vật nổi bật là có
hơn 100ngàn mảnh gốm đủ các loại h́nh,
đủ mọi kích thước như nồi, chảo,
chậu, b́nh, ṿ, bát bồng,đĩa bồng, mâm bồng,
ống nhổ, ống phóng…với đặc điểm
đa phần da gốm c̣n mới và có nhiều gốm tô màu nâu đỏ rất tươi,
ngoài ra c̣n phát hiện một số loại đất màu
đă vón cục (có lẽ đây là nguyên liệu tô màu trên
gốm?), bên cạnh mảnh gốm, bàn mài ở di tích Cù
Lao Rùa cũng có số lượng rất nhiều và
nhiều loại bàn mài khác nhau như bàn mài rảnh, lơm, lơi
ṿng... mà nhiều hơn cả là bàn mài lơi ṿng cùng các di
vật ṿng tay bằng đá hoàn chỉnh và chưa hoàn
chỉnh, hàng trăm công cụ đá các loại trong đó
có một phần công cụ đang tạo tác cùng một ít
mảnh tước đá. Di tích Mỹ Lộc có một
loại h́nh di vật nổi bật với số
lượng đáng kể là bàn mài, có đến hơn ngàn
bàn mài các loại, đặc biệt là bàn mài có kích
thước to rất nhiều cùng nhiều công cụ
như ŕu, cuốc chưa được mài nhẵn.
Trong đợt
đào thám sát địa điểm Hàn Ông Đại,
chỉ có hai hố nhỏ nhưng lại có rất
nhiều mảnh tước đá to nhỏ khác nhau ken dày
ḷng đất. Nh́n nhận sơ bộ qua hiện
tượng di vật là mảnh tước đá tập
trung với số lượng lớn, các nhà khảo
cổ suy luận có thể đây là nơi tập trung
chế tác các loại công cụ đá ở công đoạn
ghè, đẻo?
Như vậy, qua các
đặc điểm nổi bật của loại h́nh di
vật trong mỗi di tích khác nhau, làm cho chúng ta có sự suy
luận rằng: cư dân tiền sử đă có sự
sắp xếp, tổ chức ngành nghề theo tính chất
chuyên môn hóa? Có lẽ cư dân ở di tích Dốc Chùa ngoài
hoạt động nông nghiệp, chế tạo công cụ
sản xuất, làm đồ gốm theo tính chất tự
cung tự cấp th́ nghề thủ công được
tập trung sản xuất không chỉ để tiêu dùng
cho cộng đồng là nghề se sợi dệt vải
và nghề luyện kim đúc đồng. Cư dân ở di
tích Cù Lao Rùa th́ có nghề sản xuất đồ gốm
với qui mô lớn. Cư dân di tích Mỹ Lộc th́ chuyên
gia công đồ đá từ công đoạn mài tạo
sản phẩm hoàn chỉnh. Trong khi cư dân di tích Hàn Ông
Đại chuyên nghề ghè đẻo đá tạo dáng
sản phẩm trước khi mài?
Về giao thông,
đường thủy là hệ thống giao thông thuận
lợi nhất của cư dân cổ xưa. Di chuyển
trên sông vừa nhanh vừa có thể vận chuyển với
tải trọng lớn mà không
cần nhiều sức người. Phương tiện
chủ yếu có thể là thuyền và bè. Với cây gỗ
rừng và tre nứa tự nhiên là nguồn vật liệu
phong phú cho việc làm thuyền, kết bè. Số lượng ŕu đủ
kiểu, to nhỏ khác nhau, các loại công cụ dạng
đục, dùi... rất nhiều trong hầu hết các di
tích, với chức năng của các loại công cụ
kể trên có thể minh chứng cho việc người
xưa dùng chặt cây đẻo gỗ làm thuyền, làm bè
để di chuyển, vận chuyển lương
thực, thực phẩm và có thể vận chuyển các
sản phẩm thủ công...
Từ việc suy
luận người xưa đă có sự chuyên môn hóa ngành
nghề th́ chắc là các cộng đồng cư dân
thời tiền sử đă có sự giao lưu chặt
chẽ với nhau qua hệ thống sông ng̣i. Và chắc là
đă có sự trao đổi hàng hóa với nhau bằng hàng
hóa với hàng hóa?
Về mặt phân
tầng xă hội, theo qui luật xă hội nếu đă có
sự hoàn chỉnh trong cơ cấu kinh tế th́ đă có
sự tích lũy xă hội. Đó cũng là cơ sở cho
quá tŕnh phân chia tầng lớp, giai cấp trong xă hội.
Sự phân hóa này được thể hiện rơ trong các
h́nh thức mộ táng. Thời tiền sử sự phân
cấp xă hội chưa sâu sắc lắm, chưa
được thể hiện rơ nét. Ở giai đoạn
sớm như di tích Cù Lao Rùa với hai tầng văn hóa
được xác định cách nay khoảng từ 3000
đến 3500 năm, các nhà khảo cổ đă phát
hiện một khu mộ táng với đặc điểm
chung là rải các mảnh gốm và
kè đá chôn trong các hốc đá ong cùng với
đồ tùy táng như nồi, b́nh, ṿ, bát bồng... và
những công cụ đá thông dụng. Nhưng có một vài
ngôi mộ đồ tùy táng có những hiện vật to
như mâm bồng và những chiếc ŕu đá có kích
thước lớn chưa có dấu vết sử
dụng. Những chiếc ŕu này khá đẹp và hoàn
hảo về tŕnh độ mài và tạo dáng, có thể là
những sản phẩm mang ư nghĩa là đồ thờ
tự chứ không phải để sử dụng thông
thường. Điều đó có thể là sự phân
biệt vị thế của người chết trong mộ,
là tín hiệu ban đầu của sự phân tầng xă
hội? Ở di tích Dốc Chùa, các nhà khảo cổ phát
hiện được hàng chục ngôi mộ cũng
với đặc điểm chung là rải gốm và
đá trên bề mặt mộ cùng với đồ tùy táng
bên dưới mộ. Các tầng văn hóa ở di tích
Dốc Chùa có giai đoạn muộn hơn di tích Cù Lao Rùa
cách nay khoảng từ 2500 đến 3000 năm, với
sự khác nhau về số lượng và chất liệu
di vật, kích thước di vật chôn theo trong mộ
đă thể hiện rơ nét hơn việc phân cấp xă
hội trong cộng đồng này. Một số mộ
đồ tùy táng rất ít chỉ một vài đồ
đựng bằng gốm, một số mộ đồ
tùy táng nhiều nhưng cũng chỉ là đồ gốm,
đặc biệt có một số mộ ngoài hiện
vật gốm c̣n có đồ đồng, số
lượng đồ đồng trong mỗi mộ
cũng khác nhau từ 1 đến 3 hiện vật loại
h́nh khác nhau. Có thể cư dân di tích Dốc Chùa đă có
sự phân biệt giàu nghèo hoặc phân biệt vị trí cao
thấp trong xă hội? Đến thời sơ sử,
đại diện là di tích Phú Chánh th́ sự phân chia giai
cấp rất rơ ràng. Ở đây có hàng loạt ngôi mộ
với nhiều kiểu táng thức khác nhau. Một
kiểu táng thức khá độc đáo ở di tích Phú
Chánh là dùng áo quan bằng chum gỗ (một đoạn thân
cây khoét rỗng h́nh chum) sử dụng trống đồng
làm nắp đậy, đặt đồ tùy táng trong ḷng
chum. Kiểu táng thức này hiện nay chỉ phát hiện
được ở di tích Phú Chánh và đă có 5 trống
đồng liên tục được phát hiện tại
đây. Trống đồng ở di tích Phú Chánh là trống
Đông Sơn loại I, được xem là biểu
tượng của nền văn minh Việt cổ, là
loại minh khí tượng trưng cho uy quyền và sự
giàu có. Kiểu táng thức này có thể giành cho người
có vị trí cao nhất trong cộng đồng. Táng
thức thứ hai ở di tích Phú Chánh là không có chum gỗ mà
chỉ có trống đồng có đồ tùy táng bên trong và
sử dụng cọc gỗ cắm ṿng tṛn xung quanh. Táng
thức thứ ba là chỉ cắm cọc gỗ theo ṿng
tṛn, thành mộ ken dày xác cau, giữa có đồ tùy táng,
đáy mộ là các loại thảo mộc băm nhuyễn
và phủ lớp vải thô trên bề mặt mộ. Táng
thức thứ tư là cắm cọc gỗ ṿng tṛn,
đan giỏ tre h́nh chum đặt dưới mộ cùng với
một ít đồ tùy táng đơn sơ ở tâm mộ.
Táng thức thứ năm chỉ nén chặt đất
dạng chum tṛn đặt đồ tùy táng ở giữa.
Từ 5 kiểu kết cấu mộ táng và sự khác nhau
về số lượng, chất liệu, kích
thước của đồ tùy táng trong từng ngôi
mộ là một sự phân biệt giai tầng xă hội
thật rơ nét trong cộng đồng cư dân ở
đây.
Về tôn giáo tín
ngưỡng, tư liệu khảo cổ vùng Đông Nam
Bộ chưa xác định được cư dân
cổ xưa có những tập tục ǵ? Nhưng về mặt
tâm linh chắc chắn người tiền sơ sử
đă có quan niệm rằng: có một thế giới khác
sau khi chết. Bằng chứng là họ đă chôn theo
người chết những đồ dùng thường
ngày để mang theo sử dụng ở thế giới
bên kia. Việc phát hiện một tượng thú bằng
đồng có h́nh dáng lạ đứng trên lưng một
con vật khác thuộc loại ḅ sát ở di tích Dốc Chùa,
những chiếc ŕu đá to và đẹp sắc sảo
chưa qua sử dụng chôn trong một số ngôi mộ
ở di tích Cù Lao Rùa có thể mang ư nghĩa ma thuật
hoặc một cách thờ tự, cúng kiến nào đó?
Ở di tích Cù Lao
Rùa có một số mảnh
đá được xác định là đàn đá, và
việc phát hiện nhiều loại h́nh đồ trang
sức trong hầu hết các di tích được khai
quật cùng với nhiều hoa văn trang trí trên đồ
gốm... cho ta thấy người cổ xưa đă
tạo ra một loại h́nh nghệ thuật bằng âm
nhạc để phục vụ cho sinh hoạt tinh
thần cho cộng đồng và làm đẹp cho bản
thân bằng trang sức, có nhu cầu thẩm mỹ trong
sinh hoạt đời sống. Việc phát hiện rất
nhiều xác cau trong mộ táng ở di tích Phú Chánh chưa nói
lên được điều ǵ nhưng có lẽ tập
tục ăn trầu đă có trong cư dân tại đây.
Qua những vết
tích thời tiền sơ sử cùng với sự phát
triển của ngành khoa học khảo cổ, trong
thời gian qua đă giúp cho chúng ta phần nào hiểu
biết về đời sống của người tiền
sơ sử và một tiến tŕnh lịch sử của
các cộng đồng cư dân cổ trong quá tŕnh khai phá
vùng đất Nam Bộ nói chung và B́nh Dương nói riêng.
Hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều di tích
được khai quật nghiên cứu để bức
tranh về xă hội tiền nhân được hoàn thiện
hơn.
Nguồn:
http://www.sugia.vn