KHU DI
TÍCH G̉ THÁP (ĐỒNG THÁP)
TRONG
BỐI CẢNH VĂN HÓA ÓC EO
TS Nguyễn
Thị Hậu
Những
năm gần đây, trong các công tŕnh nghiên cứu khảo
cổ học đă thể hiện ngày càng rơ hơn cách/
hướng tiếp cận những nền văn hóa
khảo cổ từ việc nghiên cứu môi trường
sinh thái tự nhiên – cũng là môi trường sống
của chủ nhân trong quá khứ của những nền
văn hóa ấy. Không phải ngẫu nhiên mà khi nói
đến văn hóa Óc Eo – một nền văn hóa cổ
phát triển từ đầu Công nguyên đến TK VII và
truyền thống của nó c̣n kéo dài đến thế
kỷ X – những nhà nghiên cứu thường gắn
địa bàn phân bố của nó với đồng
bằng sông Cửu Long – Tây Nam bộ, mặc dù hiện nay
đă phát hiện một số di tích văn hóa Óc Eo ở
lưu vực sông Đồng Nai thuộc miền Đông
Nam bộ.
Môi
trường tự nhiên của văn hóa Óc Eo chủ
yếu là miền Tây Nam bộ. Vùng sinh thái Tây Nam bộ
được chia làm 3 tiểu vùng: tiểu vùng
Thượng châu thổ Cửu Long, tiểu vùng Hạ châu
thổ và tiểu vùng Đất mới ven biển Tây Nam
bộ. Cảnh quan chung của cả 3 tiểu vùng là sông
rạch, đầm đ́a, bưng biền xen với
những giồng, g̣ nổi cao giữa đồng bằng
trũng ngập nước hàng năm và một vài ngọn
núi thấp như Núi Sam, Núi Sập, Bảy Núi, Ba Thê.
Đồng bằng sông Cửu Long chịu ảnh
hưởng rất lớn của các đợt biển
tiến thời Holocene từ khoảng 5000 năm TCN
đến khoảng 1200 năm (TK XII) sau Công nguyên. Thời
kỳ trước Công nguyên biển tiến Holocene đă
ngăn chặn sự lan tỏa của văn hóa
Đồng Nai xuống đây, v́ vậy ở miền Tây
Nam bộ t́m thấy khá ít ỏi di tích khảo cổ
thời Tiền sử. Chỉ đến khi nước
biển rút th́ các nhóm cư dân bản địa của
văn hóa Đồng Nai bắt đầu mở rộng
địa bàn cư trú xuống vùng này cùng với một
bộ phận cư dân từ hải đảo vào. Liên
quan đến thời kỳ văn hóa Óc Eo là biển
tiến Holocene IV bắt đầu từ giữa TK IV và
đạt đỉnh cao vào giữa TK VII, sau đó
biển rút dần trả lại bề mặt đồng
bằng vào khoảng TK XII. Hiện nay ở Nam bộ c̣n
lại các phế tích kiến trúc đền tháp, di tích
cư trú kiểu nhà sàn kéo dài dọc sông rạch, di tích
cư trú trên các giồng g̣ cao giữa đồng
bằng…Các cuộc khai quật từ thời L.Malleret (1944)
đă t́m thấy dấu tích khoảng 30 “đường
nước cổ” là các kênh đào ngang dọc ở vùng
tứ giác Long xuyên. Đây vừa là hệ thống
đường giao thông lợi dụng thủy triều ra
vào cảng thị Óc Eo, vừa là hệ thống thủy
lợi thoát nước trong mùa nước nổi ở
đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây khảo
cổ học đă phát hiện những cổ vật qúy
giá, nhiều di vật như tượng thờ ngay trong
các di tích đền tháp, mộ táng, vật dụng phục
vụ sinh hoạt vật chất, sinh họat tinh thần
tồn tại ngay trong địa tầng văn hóa
(in-situ)ù… Đây là một trong nhiều nguyên nhân làm cho các di
tích của nền văn hóa Óc Eo rực rỡ “đột
ngột biến mất”. Tuy nhiên, từ sau TK VII trên toàn Nam
bộ vẫn tồn tại “truyền thống văn hóa
Oùc Eo” đến tận TK X – XIII.
Trong
thời kỳ h́nh thành và phát triển của văn hóa Óc Eo
(từ TK I đến TK VII) khu vực trung tâm Óc Eo – Ba
Thê được nh́n nhận là một (trong
nhiều) cảng thị của vương quốc cổ
Phù Nam, trạm dừng chân quan trọng trên tuyến
đường biển nối liền Nam Á và Bắc Á
với hai trung tâm văn minh lớn của nhân loại là
Aán Độ vàTrung Hoa. Khu vực này là một phần
của tiểu vùng Thượng châu thổ Cửu Long
(phần c̣n lại là Đồng Tháp Mười). Cũng
như tất cả các vùng thượng châu thổ khác,
tiểu vùng này tương đối cao, từ 2 – 4m,
nhưng lại bị ngập lụt vào mùa mưa nhiều
hơn là tiểu vùng Hạ châu thổ. Mùa nước
nổi ở đây từ tháng 6 trở đi và vào
khoảng tháng 9 th́ đạt đến mức cao
nhất, khu vực tứ giác Long Xuyên ngập nhiều
hơn Đồng Tháp Mười nhưng nước không
đọng lâu mà theo mạng lưới kênh rạch
rất dày đổ ra vịnh Rạch Giá – vào thời
kỳ nước lớn cứ mỗi giây lại có
khoảng 5000m3 nước lũ đổ vào bồn này
để chảy ra biển Tây Nam bộ. V́ vậy
tiểu vùng này được coi như một hồ
chứa và xả nước tự nhiên của sông Hậu,
làm giảm bớt sự ngập lụt ở Hạ châu
thổ.
Để
có thể tồn tại và phát triển, cư dân Óc Eo –
điển h́nh là tại tiểu vùng thượng châu
thổ – đă tạo dựng một lối sống thích
hợp với những điều kiện đặc thù,
biết và dám chấp nhận đồng thời khai thác
những mùa nước nổi, nước lên theo chu
kỳ hàng năm để mang lại nguồn lợi cho
ḿnh. Đặc điểm nổi bật của cư dân
văn hóa Óc Eo là lối cư trú trên nhà sàn ven hệ
thống sông rạch tự nhiên và nhân tạo, hoặc
chọn các g̣, giồng cao xây dựng những trung tâm sinh
hoạt tinh thần, mở rộng khu vực xung quanh làm
nơi cư trú, tiến đến mở rộng
địa bàn canh tác. Cư dân cổ đă duy tŕ và phát
triển cuộc sống này, trở thành một “truyền
thống” thể hiện qua hệ thống di tích kiến
trúc và những di vật khảo cổ có niên đại
từ đầu Công nguyên đến thế kỷ X – XII.
Đồng
Tháp Mười (Tháp Mười, Đồng Tháp) – Những
địa danh nổi tiếng này đều bắt
nguồn từ tên gọi một khu di tích phân bố trong
vùng trung tâm của Đồng Tháp Mười: khu di tích G̣
Tháp thuộc thời kỳ văn hóa Óc Eo, trong đó di tích
G̣ Tháp nằm trên một g̣ cao đến 6m (so với
mực nước biển).
Đồng
Tháp Mười nằm ở phía Bắc của đồng
bằng sông Cửu Long, giới hạn phía Tây Nam bởi
sông Tiền và phía Bắc là dải đất chuyển
tiếp giữa vùng phù sa cổ và phù sa mới, có thể
lấy sông Vàm Cỏ Đông làm ranh giới. Toàn bộ vùng
trũng lầy này rộng mênh mông, dài khoảng 130km,
rộng 60 - 70km, diện tích chừng 8000km2, chiếm
khoảng 1/5 diện tích châu thổ sông Cửu Long
(khoảng 40.000km2) và bằng hơn ½ châu thổ Bắc
bộ (15.000km2). Cảnh quan tự nhiên ở đây là
những g̣ đất cao nằm rải rác trên vùng
đất lầy thấp. Các g̣ đất này cấu
tạo bằng cát và sét nặng, theo cả chiều ngang và
chiều thẳng đứng người ta đều có thể
quan sát thấycó sự sắp xếp đều
đặn giữa cát và sét: cát thường nằm phủ
lên trên c̣n sét bắt đầu thấy từ 0,3 – 0,4m
trở xuống. Cả hai tầng này đều có dạng
uốn cong kiểu “lưng lừa” và có màu xám nhạt. Có
thể nhận thấy các g̣ này là phần cao nhất
của bậc thềm phù sa cổ, c̣n chính bậc thềm
này lại nằm thấp hơn chừng 1 – 2m. Như
vậy, bề mặt của thềm phù sa cổ bị
chia cắt mạnh mẽ, các sông có ḷng khá sâu, như sông Vàm
Cỏ Tây đoạn gần Mộc Hóa có “thung lũng” sâu
đến 10 – 15m. Dọc các con sông là thung lũng phù sa và
tiếp đến là vùng trũng của Đồng Tháp
Mười, gồm hai khu vực: khu vực thứ
nhất là những dải đất dọc theo sông
Tiền, tuy thấp nhưng không lầy lội, làng mạc
tập trung trên các “giồng đất” cao và dọc theo
kênh rạch. Khu vực thứ hai là cảnh quan chính của
Đồng Tháp Mười, là một “bồn trũng” có
độ cao thay đổi từ 0,5 – 3m nhưng trông
gần như bằng phẳng. Bề mặt phù sa mới
phủ lên nền phù sa cũ ngày càng dày. Phần lớn
lớp phù sa này đă lắng đọng trong môi
trường nước lợ và sét, v́ vậy độ
pH ở đây rất thấp. Trong vùng Đồng Tháp
Mười có thể phân ra 3 khu vực ngập nước
khác nhau nên đă được khai thác ở những
mức độ khác nhau. Xuyên qua lớp phù sa mới ta có
thể nhận thấy các sông rạch chảy trong vùng
trũng này đă đổi ḍng nhiều lần, bằng
chứng là các thấu kính đất có thành phần cơ
giới nhẹ hơn phân bố theo những tuyến
nhất định , đánh dấu các ḷng sông rạch hóa
thạch cũ. Vào mùa khô Đồng Tháp Mười mọc
đầy các loại cỏ năng, lát, bàng, láng sen, đ́a
lau sậy… nhưng vào mùa mưa nhất là từ tháng 9,
nước từ các Vàm Cỏ Đông – Tây và sông Tiền
tràn vào làm vùng trũng ngập sâu đến 2 – 3m, biến
cả một vùng rộng lớn này thành một biển
nước mênh mông, lấp ló những vạt lúa nổi và
đây đó vài g̣ cao chơ vơ nổi lên. Đây chính là
cảnh quan môi trường sinh sống của con
người từ thời xa xưa, mà một trong
những dấu tích điển h́nh là khu di tích G̣ Tháp.
Khu di
tích G̣ Tháp được biết
đến từ những năm cuối thế kỷ XIX
và vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX,
một số nhà nghiên cứu người Pháp đă
đến đây khảo sát và công bố những phát
hiện quan trọng về một số dấu tích
kiến trúc cổ, tượng thờ, bia đá và văn
tự cổ…Từ sau năm 1975 khu di tích này
được các nhà khảo cổ học Việt Nam
đặc biệt quan tâm, đă tiến hành khảo sát,
đào thám sát và khai quật nhiều lần. Đến nay,
có thể nhận biết quy mô và tính chất của khu di
tích G̣ Tháp gồm 3 loại h́nh là di chỉ cư trú, di tích
kiến trúc và di tích mộ táng. Ngoài những phát hiện
của các học giả Pháp, xin điểm lại một
vài di tích tiêu biểu được phát hiện và có
những nghiên cứu mới từ sau năm 1975.
- Di
chỉ cư trú G̣ Minh Sư :
Đă
được khai quật 3 lần. Dấu tích cư trú
phân bố dưới chân g̣ và rộng khắp cánh
đồng thấp xung quanh. Cuộc khai quật tháng 1/2001
đă phát hiện một khu cư trú cùng mộ táng có
địa tầng c̣n nguyên vẹn cách chân G̣ Minh Sư
khoảng 120m về phía Đông Nam. Trong di chỉ t́m
thấy nhiều di vật đá nhưng hiện vật
chiếm tỷ lệ nhỏ. Đồ đất nung
gồm mảnh ngói, tượng khỉ, dấu ấn, mảnh
phù điêu, ṿi yoni…Đồ gốm khá phong phú, có tới
hơn 18.000 mảnh, gồm các loại b́nh, ṿ nồi,
nhiều mảnh lớn có thể phục nguyên
được, có lẽ đây là những hiện vật
nguyên vẹn đă bị sụp vỡ do dây là khu di chỉ
cư trú và mộ táng. Một số lớn các b́nh ṿ,
nồi lớn đă được dùng để
đựng than tro hỏa táng – như trong mộ M1:
chiếc ṿ đựng xương tro có h́nh quả lê,
cổ trụ, vành miệng đă mất, vai xuôi thân ph́nh
tṛn, thu dần xuống đế h́nh vành khăn thấp.
Gốm mịn màu ngà vàng, xương trắng xám lẫi ít
sỏi laterit. Một ṿ khác có xương đen, chắc mịn,
áo màu đỏ gạch loang lổ. Việc xuất lộ
ṿ gốm chứa than tro, đặc biệt mật
độ dày đặc của các cụm b́nh ṿ cho thấy
đây là phát hiện đầu tiên về một khu mộ
táng khá tập trung trong văn hóa Óc Eo. Tại di tích Linh
Sơn Nam (Ba Thê – An Giang) trong cuộc khai quật của
trường Viễn Đông bác cổ và TT Khảo cổ
học Viện KHXH TPHCM cũng xuất lộ ṿ chứa
than tro nhưng đơn lẻ và có tính chất khác
biệt về h́nh thức chôn cất cũng như niên
đại so với di tích mộ táng ở G̣ Minh Sư.
Trong
cuộc khai quật lần thứ hai di tích này vào tháng
3/2002, những người khai quật đă phát hiện
nhiều hố mộ phân bố trên thềm laterit hoặc
chồng chéo lên nhau. Chúng có dạng hố đào h́nh ḷng
chảo hoặc h́nh phễu, đáy lót cát hoặc có thêm
lớp đất sét xám xanh bên dưới. Bên trên có các
đồ gốm vỡ, xương thú, than tro, sỏi
nhỏ và nhiều hiện vật khác…Bên cạnh hiện
tượng hỏa táng có thể đă tồn tại
hiện tượng hung táng hay bán hung táng. Ngoài số
lượng gốm khổng lồ và nhiều loại h́nh
hiện vật khác đă được phát hiện
gồm các chất liệu đá, xương, thủy tinh,
kim loại, gỗ…c̣n phát hiện xỉ thủy tinh, xỉ
kim loại, cốc rót kim loại, mảnh vỡ của các
tấm đá…cho thấy sự phát triển của
nhiều nghề thủ công ở đây. Đặc
điểm và địa tầng G̣ Minh Sư cho thấy di
chỉ được sử dụng cư trú và chôn
cất trong một thời gian rất dài, khoảng từ
TK I đến TK VIII sau CN.
Lần
thứ 3 khai quật di tích G̣ Minh Sư (4/2003) đă làm rơ
thêm các đặc điểm của di chỉ cư trú kiêm
mộ táng của di tích. H́nh thức cư trú theo mùa
được nhận thức khá rơ, cư trú trên các
đồi g̣ thấp bên cạnh các lạch trũng nhỏ
và quá tŕnh bồi đắp để mở rộng
diện tích sử dụng là một đặc điểm
phổ biến của giai đoạn văn hóa Óc Eo ở
đây. Bên cạnh các di vật Óc Eo điển h́nh, một
số di vật ngoại nhập c̣n có những mảnh
gốm có đặc điểm của thời tiền
sử, cho thấy di tích này trong khu di tích G̣ Tháp không chỉ
là một trung tâm văn hóa Oùc Eo phát triển, có mối quan
hệ rộng răi với thế giới bên ngoài mà c̣n có
lịch sử phát triển lâu đời hơn những ǵ
đă biết đến nay.
Ngoài di
chỉ cư trú ở chân G̣ Minh Sư, trong khu di tích G̣ Tháp
c̣n có một số di chỉ khác như Miếu Bà chúa
Xứ, Đ́a Phật, Đ́a Vàng, khu mộ Đốc Binh
Kiều, một vài g̣ nhỏ xung quanh…trong các di chỉ này
t́m thấy vết tích bếp lửa, mảnh gốm ám
khói, than củi, phế thải bếp núc, xương trâu
ḅ, vỏ dừa, hạt luá, trái cây, gỗ có vết gia
công, nhiều cọc gỗ nhà sàn, đặc biệt
nhiều tượng Phật bằng gỗ và có dấu
hiệu của một xưởng thủ công chuyên chế
tác loại tượng này…Niên đại của những
di chỉ cư trú này kéo dài từ thời kỳ Tiền
sử muộn đến thời kỳ văn hóa Óc Eo. Cùng
với những di chỉ cư trú khác trong vùng Đồng
Tháp Mười thuộc tỉnh Long An, nhóm di chỉ cư
trú ở khu di tích G̣ Tháp đă mang lại nhiều tư
liệu mới để t́m hiểu về chủ nhân
văn hóa Óc Eo.
Gồm
dấu tích kiến trúc ở G̣ Tháp, g̣ Bà Chúa Xứ, g̣ Minh
Sư, Tháp Mười cổ tự, lăng mộ
Đốc Binh Kiều. Các kiến trúc ở đây rất
đa dạng, gồm kiến trúc đền mộ có b́nh
đồ chữ nhật khép kín, tường vách bên trong
xây giật cấp, kiến trúc b́nh đồ chữ
nhật bẻ góc hai đầu Đông – Tây, quanh
tường có gờ cột giả. Trung tâm có cấu trúc
vuông sâu từ bề mặt xuống đến đáy.
Loại kiến trúc này có thể thuộc thời kỳ sau
Oùc Eo. Ngoài ra c̣n có dấu vết của những bờ
tường gạch dài vài chục mét, bờ tường
xây ch́m dưới đất. Trên 10 kiến trúc mộ táng
có cấu trúc trung tâm xây gạch, gồm huyệt mộ
vuông, giữa là một trụ gạch vuông sâu đến
đáy, nằm trong khuôn viên h́nh chữ nhật.
G̣ Tháp
cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng 3,8m, diện
tích chừng 4500m2. Từ những cuộc khảo sát
của L.Malleret đă phát hiện trên g̣ có nhiều gạch
và hàng chục khối đá lớn, yoni, cột… (như 3
cột lớn bằng đá hoa cương mặt cắt
ngang h́nh vuông cạnh 0,48m, dài 1,56m, 1,10m và 1,42m, một
đầu có chốt đầu kia có mộng để
ghép nối theo chiều cao). Dấu tích rơ ràng nhất là
kiến trúc gạch dài 17,30m theo hướng Đông – Tây,
rộng 12m (Bắc – Nam), cạnh bẻ góc, đối
xứng hai phần Bắc – Nam, cho thấy kiến trúc khá
quy mô và có liên quan đến nhiều kiến trúc khác xung
quanh. Di vật gồm những mảnh gốm b́nh ấm có
ṿi, một số mảnh vỡ của Yoni, tượng
Visnu, khuông đúc, đặc biệt có 2 tượng Visnu
rất đẹp tuy không nguyên vẹn.
Khai
quật năm 1984 đă đưa ra khỏi ḷng
đất một kiến trúc khá lớn nằm trong ḷng g̣:
kích thước 20,90 x 13,40m có cạnh bẻ góc dài ngắn
khác nhau. Phần nền và móng có những ô vuông xây gạch,
có chỗ dày đến 1,4m. Phần kiến trúc bên trên
đă bị phá hủy hoàn toàn. Căn cứ vào dấu tích
nền móng và những mảnh đá kiến trúc để
lại, có thể nhận biết đây là một
đền thờ Hindu giáo được xây dựng khá
chuẩn mực, có niên đại vào TK VI.
Nếu
so với những khu di tích khác của văn hóa Óc Eo th́ khu
di tích G̣ Tháp tương đương về quy mô, số
lượng và loại h́nh di tích. Các cuộc điều tra
c̣n ghi nhận dấu tích của nhiều con kinh đào
cổ từ khu vực di tích này tỏa đi nhiều di
tích khác trong Đồng Tháp Mười như G̣ Đế,
G̣ Hàng, G̣ Bảy Liếp, Đ́a Tháp, G̣ Vĩnh Châu A…
- Cổ
vật quan trọng trong khu di tích G̣ Tháp:
Hiện
vật trong di tích kiến trúc và mộ táng vô cùng phong phú
về chất liệu, độc đáo về loại
h́nh và kiểu dáng, Chúng tôi muốn nhắc đến
những hiện vật vàng, nhóm các pho tượng Phật
bằng gỗ và 2 bia đá có minh văn.
Nhóm
hiện vật vàng ở G̣ Tháp có đến 321 mảnh,
chạm khắc h́nh tượng các vị thần, linh
vật, hoa văn…Từ các cứ liệu C14, văn
khắc và tiếu tượng học những mảnh vàng
này đă cho biết niên đại của chúng không
đồng nhất, thể hiện ảnh hưởng
từ nền văn hóa Aán Độ trong thời gian khá
dài, từ TK IV – V trước Công nguyên đến TK V sau
CN.
Khu di
tích G̣ Tháp nổi tiếng với các pho tượng
Phật bằng gỗ – di vật đặc trưng
của nghệ thuật Phật giáo trong văn hóa Óc Eo. Tuy
phần lớn tượng Phật gỗ được
phát hiện ngẫu nhiên trong khi đào đ́a, làm ruộng
nhưng số lượng lớn, sự phong phú và đa
dạng về kích thước và kiểu dáng vừa
phản ánh sự tiếp thu các ảnh hưởng của
nghệ thuật mới, vừa bộc lộ nét bàn
địa chân chất, giản dị trong chất liệu
tạc tượng là nguồn nguyên liệu gỗ dồi
dào tại chỗ. Chất liệu gỗ mù u làm nên các pho
tượng này vừa bền vững đồng thời
vẫn thỏa măn được sự sáng tạo, tính
đa dạng của nghệ nhân Óc Eo, tạo nên phong cách
nghệ thuật độc đáo ở đây. Thế
kỷ V – VII là thời kỳ phát triển rực rỡ
của điêu khắc Phật giáo bản địa mà
sưu tập tượng Phật bằng gỗ ở vùng
Đồng Tháp là một minh chứng.
Cho
đến nay trong số các bia đá mang nội dung
phản ánh về vương quốc Phù Nam có 1 tấm bia
(kư hiệu K5) t́m thấy ở khu di tích G̣ Tháp,
được các nhà nghiên cứu định niên
đại vào thế kỷ V. Nội dung văn bia thấm
đượm tinh thần Hindu giáo, chi phái Visnu là tôn giáo
phổ biến song hành cùng Phật Giáo trong văn hóa Óc Eo.
Quan trọng nhất là văn bia c̣n cho biết, chính đây
là vùng đầm lầy được chinh phục
bởi vua Phù Nam Jayavarman và phong cho con trai là Gunavarman cai
quản.
Quy mô
kiến trúc, nội dung phản ánh của sưu tập di
vật và hệ thống đường giao thông thủy
trong khu di tích G̣ Tháp đă cho thấy, khu vực này từng
là một trung tâm tôn giáo – văn hóa quan trọng từ TK IV
đến TK VIII, không chỉ của vùng Đồng Tháp
Mười mà c̣n của chung đồng bằng sông
Cửu Long.
Cuộc
sống của cư dân thời cổ thể hiện rơ
nét quá tŕnh thích nghi với môi trường sinh thái tự
nhiên. Tính chất thích nghi không chỉ là sự “nương
nhờ”, khai thác tự nhiên một cách thuần tuư mà c̣n là
quá tŕnh tạo nên môi trường sinh thái nhân văn –
cảnh quan lao động sản xuất, nơi cư trú,
các công tŕnh kiến trúc… Khảo cổ học dựa vào
những di tích di vật phát hiện được
để nghiên cứu về đời sống con
người trong quá khứ, tất nhiên, chỉ hiểu
biết được một phần v́ những ǵ c̣n
lại cũng vô cùng ít ỏi. So với nhiều di tích
khảo cổ, khu di tích G̣ Tháp là nơi phát hiện một
số lượng lớn di vật nhiều loại h́nh,
từ vật dụng sinh hoạt trong di chỉ cư trú
đến vật dâng cúng quư giá trong các đền tháp,
vật tùy táng linh thiêng trong những ngôi mộ, từ các
phế tích kiến trúc đền tháp và tượng
thờ, minh văn đến di tích nhà ở, nền
bếp… Tổng thể di tích và di vật phản ánh quá
tŕnh tụ cư, hoạt động kinh tế – văn hóa
– tôn giáo và các mối quan hệ giao lưu trong một
thời gian dài khoảng 10 thế kỷ. “May mắn” là môi
trường tự nhiên và nhân văn của khu di tích này (và
nhiều di tích văn hóa Óc Eo khác) vẫn không/ chưa
biến đổi nhiều so với trước kia.
Điều đó giúp ta h́nh dung được phần nào
cuộc sống của chủ nhân những di tích và di
vật nơi đây. Trong môi trường sinh thái “bưng
biền Đồng Tháp” cư dân cổ đă xây dựng
cảnh quan nhân văn gồm các kiến trúc đền
thờ, tháp mộ trên các g̣ phù sa cổ (có khi
được con người đắp cao thêm), xây
dựng nhà sàn cư trú ở địa h́nh thấp xung quanh…
Họ khai thác nhiều loại động – thực
vật nơi đầm lầy đ́a trũng để
sinh sống, trong đó có lúa ma hay lúa trời – loại lúa
hoang dại có thể cao đến 1,5m, nổi trên mặt
nước vào mùa nước, rồi dần dần
“cải tạo” vùng đất trũng lầy để
trồng lúa – có lẽ là theo lối sạ lúa một vụ
năng xuất không cao, giống như lối canh tác
của cư dân Đồng Tháp Mười cho đến
gần đây. Quá tŕnh này để lại dấu tích
cư trú ở đây trong một thời gian rất dài,
từ đầu Công nguyên đến khoảng thế
kỷ XII – XIII. Không chỉ vậy, khu vực G̣ Tháp c̣n
gắn liền với cảng thị Óc Eo – Ba Thê và trở
thành một trung tâm lớn thể hiện sự gắn bó
giữa đời sống xă hội và sự phát triển
của tôn giáo: từ một vài di tích quy mô không lớn, xây
dựng đơn giản vào đầu Công nguyên đă phát
triển đến đỉnh cao của kiến trúc và
điêu khác Hindu giáo và Phật giáo vào thế kỷ VI – VIII.
Việc
tiếp cận khu di tích G̣ Tháp từ môi trường
tự nhiên để t́m hiểu về môi trường nhân
văn đă đặt ra 2 vấn đề về văn
hóa Óc Eo.
Một là, hiện
nay các di tích văn hóa Óc Eo đang được bảo
tồn là di tích kiến trúc tôn giáo – tín ngưỡng mà
hầu như không có di tích cư trú và di tích môi
trường nào xung quanh nó được bảo tồn.
Do đó, một mặt các di tích này bị tách khỏi môi
trường xă hội và môi trường tự nhiên,
trở thành các phế tích đơn lẻ. Mặt khác, vô
h́nh chung chúng ta đă chỉ quan tâm đến một
yếu tố văn hóa ngoại sinh thuộc “thượng
tầng kiến trúc” mà “quên đi” các yếu tố văn
hóa nội sinh khác của “hạ tầng cơ sở” –
nền tảng vô cùng quan trọng để nhận
diện chủ nhân của xă hội Óc Eo.
Hai là, dù có những
thay đổi về “chính trị” từ thế kỷ VII
nhưng sau đó, cuộc sống của cư dân cổ
đồng bằng sông Cửu Long vẫn tiếp diễn
trong sự thích ứng cao nhất với điều
kiện tự nhiên và bằng sự duy tŕ truyền
thống (vật chất, tinh thần) của văn hóa Óc
Eo. Do vậy, phạm vi niên đại của văn hoá
Óc Eo nên chăng cần mở rộng hơn, đến
khoảng thế kỷ X – XII, có thể và cần
phải chia làm nhiều giai đoạn để nh́n
nhận sự phát triển đa tuyến nhưng liên
tục từ cội nguồn văn hóa thời Tiền sử
ở Nam bộ mà không cần thiết sử dụng khái
niệm “hậu Óc Eo” – một khái niệm cho đến
nay chưa có được sự đồng thuận
của các nhà khoa học về nội hàm và giới hạn
niên đại của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Vơ
Sĩ Khải, 2002: Văn hóa đồng bằng Nam bộ
(di tích kiến trúc cổ). NXB Khoa học xă hội.
- Lê
Thị Liên, 2006: Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo
ở đồng bằng sông Cửu Long trước
thế kỷ X. NXB Thế giới. - Lê Bá Thảo, 2004: Thiên
nhiên Việt Nam. NXB Giáo dục.