Trầu Cau Trong Đời
Sống Văn Hóa Dân Tộc
Phạm Thị Nhung
Ngày nay, qua
nhiều sách vở và các tài liệu khảo cổ,
người ta được biết trầu cau là hai
loại cây đă xuất hiện rất lâu đời
ở các vùng Trung Ấn, Đông Nam Á và ở một số
quần đảo trên Thái B́nh Dương; như trong di
chỉ khảo cổ thuộc văn hóa Ḥa B́nh, hạt cau
đă được t́m thấy trên dưới một
vạn năm (1). Tại các nơi đây đă có nhiều
dân tộc có tục ăn trầu như các dân tộc
thiểu số xưa ở miền nam nước Trung Hoa
(kể từ lưu vực sông Dương tử trở
xuống), tức người Trung Hoa miền nam ngày nay, các
dân tộc Thái Lan, Miến Điện, các dân tộc
Việt-Mên-Lào, kể cả các dân tộc thiểu số
như người Thái, Tày, Nùng, Mường, Dao,
Thượng... trên bán đảo Đông Dương, cùng các dân
tộc trên quần đảo Nam Dương, Mă Lai, Phi
Luật Tân; và ở Ấn Ịộ cũng có nhiều
nơi dân chúng có tục ăn trầu (2).
Có lẽ
người xưa, do kinh nghiệm mà có, đă biết
sử dụng vôi, trầu, cau, cũng như các loại lá,
rễ, quả của nhiều thứ cây khác t́m
được để bảo vệ sức khỏe,
pḥng ngừa hay trị bệnh. Quả thực, ăn
trầu đă giúp cho cơ thể được ấm
nóng chống lạnh, chống sơn lam thủy khí; ăn
trầu lại sạch miệng, răng lợi và
xương cốt được bồi dưỡng,
vững mạnh.
Sự tích trầu cau - Ư nghĩa.
Riêng tại
xứ ta, tục ăn trầu tất nhiên đă có rất
sớm, ngay tục dùng trầu cau làm sính lễ cưới
hỏi thay muối (v́ người xưa cho muối là quí
nhất) có thể cũng có đă lâu, nhưng chưa
biết bắt đầu từ thời điểm nào.
Phải đợi đến cuối thế kỷ
thứ XV, sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp
ra đời, nó mới được ghi chép lại thành
một truyện tích rơ ràng, có một nguồn gốc mang
nhiều ư nghĩa thâm thúy.
Theo tài liệu
của Bùi Văn Nguyên, dịch giả cuốn Tân Đính
Lĩnh Nam Chích Quái của Vũ Quỳnh, th́ Trần
Thế Pháp trong bài đề tựa sách của ḿnh, có cho
biết, chính ông là người đă sưu tập
được cuốn Lĩnh Nam Chích Quái Lục, bản
gốc, của một tác giả khuyến danh, có lẽ
khởi thảo vào đời Trần. Sách chép những
chuyện huyền hoặc, quái dị trong nước
từ xưa đến nay, căn cứ vào lời kể
của dân gian và chỉ được phổ biến trong
từng địa phương.
Được sách,
họ Trần bèn nghiên cứu cho sáng tỏ đầu
đuôi sự việc rồi chép lại, có sắp xếp
và chỉnh lư về nội dung một số truyện.
Sau đó, tác
giả Vũ Quỳnh rồi Kiền Phú (đời
hậu Lê) cũng dựa vào bản gốc để
viết lại L.N.C.Q. theo sự sắp đặt riêng
của ḿnh. Ịặc biệt trong cuốn Tân Ịính
L.N.C.Q., Vũ Quỳnh đă bổ xung nhiều chi tiết,
thêm nhiều truyện mới và viết bằng một h́nh
thức mới mẻ, hấp dẫn hơn.
Sự tích
Trầu Cau trong L.N.C.Q. đă có nội dung như thế nào?
Vào thời xa
xưa, có hai anh em nhà họ Cao, một người tên Tân,
một người tên Lang (tân lang có nghĩa là cây cau)
rất mực thương yêu nhau. Khi cha mẹ qua
đời, hai anh em đến trọ học nhà ông
thầy họ Lưu.
Thấy Tân và Lang
vừa học giỏi, vừa đẹp người
đẹp nết, ông thầy yêu quí như con. Cô con gái
của thầy cũng đem ḷng quyến luyến, muốn
chọn người anh làm chồng.
Hai anh em Tân và Lang
sát tuổi nhau, dung mạo lại giống nhau như khuôn
đúc, cô gái không sao đoán được ai là anh, ai là em.
Nhân dịp biếu cháo, cô cố ư chỉ đưa tới
một bát cháo với một đôi đũa rồi ŕnh
xem, thấy Lang cung kính mời Tân ăn trước cô
mới biết Tân là anh, và xin cha được gá nghĩa
cùng chàng.
Vợ chồng
Tân và Xuân Phù (tên cô gái, xuân phù có nghĩa là trầu không mùa
xuân) sống rất hạnh phúc. Hai anh em Tân và Lang vẫn
ở bên nhau, nhưng Lang nhận thấy từ ngày anh có
vợ, t́nh anh đối với ḿnh không c̣n quyến
luyến như xưa, trong khi ấy người anh vô t́nh
không hề hay biết. Đă thế lại xẩy ra chuyện
hiểu lầm. Một hôm hai anh em đi làm đồng
về muộn, Lang về trước, nàng Lưu
tưởng chồng, chạy ra vồn vă âu yếm. Lang
vội lên tiếng, cả hai đều biết là nhầm
nên rất ngượng. Tân về, biết chuyện
để dạ nghi ngờ, từ đó tỏ ra lạnh
nhạt với em hơn.
Lang buồn
tủi âm thầm bỏ nhà ra đi. Chàng lang thang trong
rừng cho tới khi kiệt sức, chết đi hóa thân
thành cây cau bên bờ suối vắng.
Thấy em không
về, Tân ân hận, xót xa. Chàng lặng lẽ lên
đường t́m em. Tân cũng đă tới bờ
suối nọ, ngồi bên cây cau than khóc. Khi thân xác rũ
liệt, chàng chết hóa thân thành tảng đá vôi, nằm
sát bên gốc cau.
Nàng Lưu chờ
chồng măi chẳng thấy trở về, quá nhớ
thương nên lại đi t́m. Một chiều kia nàng
cũng tới được bờ suối định mệnh.
Nàng ngồi trên tảng đá khóc miết... đến khi
hồn ĺa khỏi xác th́ hóa thân thành cây trầu không, leo bám
trên thân đá.
Gia đ́nh họ
Lưu đi t́m con, được biết chuyện bèn
lập miếu thờ. Người đương
thời rất cảm kích trước t́nh anh em khăng
khít, t́nh vợ chồng thắm thiết, thủy chung
của anh em vợ chồng họ Cao nên thường
đến đốt nhang, chiêm bái, cầu cúng (3).
Một hôm vua Hùng
thứ tư nhân dịp tuần du qua đấy, thấy
có miếu thờ, lại được dân sở tại
kể cho nghe câu chuyện thương tâm kia th́ vô cùng
cảm động. Ngài bảo lấy trầu cau ăn
thử mới khám phá ra một mùi vị thơm cay,
nồng ấm, và khi nhổ nước cốt trầu
xuống tảng đá vôi lại thấy hiện ra sắc
đỏ tươi như máu, nhà vua cho là quư bèn truyền
lấy giống về trồng, xa gần bắt
chước làm theo. Ngài c̣n xuống lệnh cho thần dân từ
nay sẽ nhất thiết dùng trầu cau trong các dịp
cưới hỏi, và trong các buổi hội họp
lớn, nhỏ. Tục ăn trầu ở nước ta có
từ đó.
Sau khi đọc
sự tích Trầu Cau trong Lĩnh Nam Chích Quái, ta nhận
thấy, truyện được ghi chép lại không
những có kết cấu chặt chẽ, lại phối hợp
được cả hai yếu tố hiện thực
lẫn huyền hoặc một cách khéo léo. Như thế ,
các tác giả của nó đă khiến một câu chuyện
truyền khẩu vụn vặt, c̣n mờ nhạt trong dân
gian trở thành một truyện cổ tích có đầu
đuôi, vừa lư thú hấp dẫn, vừa hàm chứa
nhiều ư nghĩa thâm thúy.
Quả vậy,
ở giai đoạn đầu, truyền có tính hiện
thực với dấu vết thời đại, với
những tên tuổi rơ ràng, có ư nghĩa, với những t́nh
tiết hợp t́nh, hợp lư, tự nhiên. Ở giai
đoạn cuối, truyện trở nên huyền hoặc:
hai anh em họ Cao và vợ người anh v́ không hiểu
nhau nên đă tự chia ĺa. Chỉ đến khi cả ba
người cùng chết đi và chết bên nhau,
người em hóa cây cau, người anh hóa phiến đá
vôi và vợ người anh hóa cây trầu không, họ
mới có được sự cảm thông hoàn toàn; từ
nay họ sẽ măi măi gắn bó bên nhau và kết hợp
thành một qua miếng trầu t́nh nghĩa. Ở đó,
một ḍng nước đỏ tươi như máu
được tiết ra, tượng trưng cho t́nh gia
đ́nh muôn đời thiêng liêng, bền chặt.
Trần Thế
Pháp, cũng như các tác giả đời Lê khác, khi
viết lại sự tích Trầu Cau nói riêng, dàn dựng
lại những huyền thoại dân gian trong Lĩnh Nam
Chích Quái nói chung, hiển nhiên đă có hậu ư đề cao
những giá trị cũ của dân tộc, với mục
đích phổ biến để giáo dục con em theo tinh
thần 24 điều dụ của vua Lê Thánh Tông (4). Có
lẽ bắt đầu từ đấy (cuối thế
kỷ XV) các truyện cổ tích, thần thoại nói chung,
truyện Trầu Cau nói riêng mới được
truyền bá rộng răi trong toàn quốc. Riêng trong sự tích
Trầu Cau, ta thấy các tác giả muốn giải thích cho
mọi người hiểu rằng, dân tộc ta đă có
một đời sống văn hóa khá cao ngay từ
thuở xa xưa, từ thời Hùng Vương kia (theo
Đại Việt Sử Lược, vào khoảng thế
kỷ thứ VII trước Tây lịch) (5). Ngay từ
thuở đó xă hội Việt Nam đă có truyền
thống lấy gia đ́nh làm gốc, anh em biết
thương quư nhau, trên kính dưới nhường;
vợ chồng lấy nhau v́ t́nh v́ nghĩa, và người
đàn bà đă biết trọn niềm chung thủy son
sắt với chồng... Không phải đợi
đến khi người Trung Hoa sang đô hộ
nước ta, giáo hóa ta, dân ta mới biết thế nào là
hiếu đễ, thế nào là tiết nghĩa.
Và cũng v́
sự tích Trầu Cau có ư nghĩa sâu sắc như thế
nên tục ăn trầu của dân ta đă được
thăng hoa, trở thành một mỹ tục mang tính
chất đặc thù của một nền văn minh
cổ Đông Nam Á. Mỹ tục ăn trầu này đă
gắn liền với những sinh hoạt văn hóa,
từ đời sống vật chất hằng ngày đến
đời sống tinh thần của dân ta trước kia
như thế nào?
Để t́m
hiểu, chúng ta tất phải dựa một phần
lớn vào những tài liệu có từ ngàn xưa, đó
chính là loại văn chương b́nh dân truyền khẩu
của dân tộc: thành ngữ, tục ngữ, ca dao và dân ca
vậy.
1. Trầu cau nơi quê hương
Chúng ta đều
biết, xưa kia trầu cau là hai loại cây
được trồng khắp nơi trên quê hương
đất nước để lấy lá, lấy trái dùng
hằng ngày. Từ vua quan cho chí thứ dân, từ đàn ông
cho chí đàn bà, ai ai cũng thích nhai trầu; nhiều
người c̣n nghiện là đằng khác, nhất là các bà
già b́nh dân, nhai trầu bỏm bẻm suốt ngày, do đó
mới có khẩu ngữ "bà già trầu".
Đặc biệt
cây cau chẳng những được dân gian quí hóa bảo
nhau trồng ở sân trước nhà - chuối sau cau
trước - mà ngay ở Hoàng thành, vào đời Minh
Mạng (1820 - 1840), cây cau c̣n được chọn
khắc trên đỉnh đồng, có tên Anh Đỉnh,
đỉnh thứ tư trong cửu đỉnh,
được đặt trước sân Thế Miếu.
Với chúng ta,
h́nh ảnh những hàng cau thẳng tắp, cao vút (nhiều
khi cao hơn 10 mét), có lá mọc thành chùm ở ngọn cây,
thân lá xẻ h́nh lông chim, lung linh trong nắng sớm, đong
đưa trước gió chiều hay in h́nh trên nền
trời xanh thẳm vào những đêm trăng sáng; cùng h́nh
ảnh những giàn trầu không xanh rờn với
những chiếc lá to bằng bàn tay, có h́nh trái tim duyên dáng
nơi góc vườn của nội, của ngoại...
đều là những h́nh ảnh thân quen đă in sâu vào kư
ức của nhiều người. Ngày nay chúng đă
trở thành những h́nh ảnh biểu tượng cho quê
hương trong nỗi nhớ, niềm thương
của bầy con xa xứ.
Hoa cau th́ mọc
thành một chùm lớn, phân nhánh, có mo bọc ngoài. Khi hoa
kết trái th́ buồng cau nở lớn, mo cau khô, rụng
xuống. Câu ca dao sau đây đă mô tả h́nh ảnh và giới
thiệu thời gian cau đơm hoa kết trái một cách
thật lư thú:
- Đầu rồng
đuôi phượng te te
Mùa đông ấp
trứng, mùa hè nở con.
Riêng loại cau
liên pḥng, c̣n gọi là cau tứ quí th́ ra trái cả bốn
mùa. Khi được mùa, mỗi buồng cau có đến
trên trăm trái, h́nh bầu bầu và lớn bằng quả
trứng gà.
Trầu cau không
chỉ được trồng để nhà dùng mà
nhiều khi c̣n là nguồn sống của gia đ́nh và
lập nên cửa nên nhà:
- Anh về
cuốc đất trồng cau,
Cho em vun ké dây trầu một bên.
Chừng nào trầu nọ bén lên,
Cau kia sai trái lập nên cửa nhà.
Chả thế,
gia đ́nh nào có cả vườn trồng cau sinh lợi
đều được kể là một trong những nhà
giầu có nơi thôn dă:
- Nhà ngói, cây mít
- Ruộng sâu, trâu nái
hay
- Vườn cau, ao cá.
Ở nước
ta, từ Bắc chí Nam đều có nhiều vùng nổi
tiếng trồng trầu cau và sản xuất
được nhiều trầu cau ngon, gửi bán đi các
nơi hoặc để xuất cảng.
Theo tài liệu
của Đỗ Tất Lợi, trước đây (1930)
diện tích trồng cau ở ngoài Bắc ước
chừng 2.500 hectare, chủ yếu là các vùng Hải
Dương, Kiến An, Quảng Ninh, Nam Định và Thái B́nh.
Ca dao cũng có câu:
- Đồn rằng
kẻ Trọng lắm cau,
Kẻ Cát lắm luá, kẻ Mau lắm tiền.
Ở miền
Trung, diện tích trồng cau khoảng 1.400 hectare.
Ịặc biệt trầu Chợ Dinh với cau Nam
Phổ đă được ca dao vùng Huế Ợ Thừa
Thiên ca tụng hết lời:
- Trầu Chợ Dinh với cau Nam Phổ
Non vôi cũng đỏ, thiếu vỏ cũng ngon.
Hạt thơm mà xác lại gịn,
Ịược tiếng khen là phải, dậy tiếng
đồn không sai.
Chợ Dinh và Nam
Phổ là hai đại xă nằm đối diện nhau
ở hai bên bờ sông Hương, thuộc ngoại biên
thành phố Huế.
Trong Nam, cau
được trồng nhiều ở Mỹ Tho, Bến
Tre, Cần Thơ, nhưng có tiếng hơn cả là
trầu cau Bà Điểm - Hóc Môn. Bà Điểm - Hóc Môn, một
miệt vườn ngoại thành Sài G̣n , có biệt danh là
Mười Tám Thôn Vườn Trầu, chả v́ cả
mười tám thôn làng nơi đây dân chúng đều
trồng trầu làm nghề chính. Trầu trồng từ
vườn nhà này tiếp nối vườn nhà kia, tạo
thành một vùng trầu xanh tươi bát ngát. Hiện nay,
một phần do chiến tranh tàn phá, một phần do
giới trẻ bỏ hẳn tục ăn trầu nên
diện tích trồng trọt tất đă giảm nhiều.
2. Công dụng của trầu cau
Trầu cau
rất đa dụng, nhất là cau. Thân cau được
dùng làm cột nhà, làm cầu, người ta bắc thành
cầu khỉ hay đóng thành bè thay cầu ván. Mo cau
để lợp nhà, làm quạt, làm gầu tát nước,
đôi khi c̣n để đựng đồ như gói
tiền, gói vàng hay bọc thức ăn. Tàu cau th́ làm
chổi quét sân v.v...
Trong Đông-y, ngành
thuốc Nam, trầu cau được dùng làm thuốc
chữa bệnh. Theo Đỗ Tất Lợi, lá trầu giă
nhỏ ép lấy nước chữa viêm mủ chân răng
hoặc ḥa với nước để rửa các vết
lở loét, mụn nhọt hay vết chàm của trẻ
sơ sinh. Lá trầu giă nhỏ để nguyên chất
đắp lên ngực chữa ho hen, đắp lên vú cho
sữa ngưng chảy.
C̣n cau th́ vỏ
cau chữa bụng đầy trướng, bí tiểu,
ốm nghén, nôn mửa.
Hạt cau khô giúp sự tiêu hóa, viêm ruột, sốt rét, sán
lăi và bệnh chốc đầu trẻ em.
Tất nhiên, công dụng chính của trầu cau là
để ăn. Ăn trầu vừa chắc răng,
bổ xương, lại vừa ngon miệng, say sưa
vui chuyện; ngoài ra ăn trầu c̣n để làm
đẹp.
Một miếng
trầu được gọi là khẩu trầu gồm có
một lá trầu xanh hay xanh ngả vàng têm sẵn, trong
để chút vôi; cộng với một miếng cau, ngoài
là vỏ xanh đậm rồi đến cùi có sợi
trắng ngà, phía trong, phần trên là thịt trắng phau,
dưới là hạt nhờ nhờ ḷng tôm; cộng thêm một
lát vỏ mỏng chuyển dần từ mầu nâu non
đến phớt hồng (thường lấy từ
rễ các cây chay, mít chay hay cây đề ...). Nh́n mầu
sắc đă thấy đẹp mắt, khi ăn vào c̣n có
vị ngọt ngọt của cau, cay cay, thơm thơm
của lá trầu (toàn thân cây trầu có tinh dầu thơm),
chát chát của hạt và vỏ (có chất tanin), cùng cảm
nhận được cơ thể đang nóng nóng v́ vôi và
đầu óc hơi choáng váng say v́ trong hạt cau có chất
arécoline làm kích thích thần kinh hệ.
Đă vậy, nếu
c̣n được đệm thêm tí quế, tí hồi hay tí
thuốc lào, thuốc lá th́ miếng trầu ăn vào càng
tăng phần kích thích, làm thêm nóng bừng cơ thể,
thêm dậy hồng đôi má và thêm long lanh cặp mắt.
Sau nữa, nước cốt trầu có sắc màu
đỏ tươi làm hồng thắm đôi môi.
Người phụ nữ xưa đă biết lợi
dụng những ưu điểm này của miếng
trầu, nên họ ăn trầu c̣n để làm
đẹp.
Làm đẹp
cũng phải biết cách và phải có nghệ thuật
nữa. Đời nào chả thế, người phụ
nữ xưa "có trầu chẳng để môi thâm"
đă đành, mà c̣n biết cách ăn hai ba miếng trầu
liên tiếp nhau, tạo cho được một cặp
môi đỏ có đường viền như sợi
chỉ, trông thật quyến rũ, được
mệnh danh là "môi ăn trầu cắn chỉ". Khác
nào ngày nay chị em bạn gái chúng ta, sau khi đă tô son trên
đôi môi rồi c̣n lấy bút lông vẽ thêm một
đường son đỏ đậm thật nhỏ
quanh vành môi cho đôi môi thêm nổi.
Sau hết,
trầu cau được sử dụng làm phương
tiện giao tiếp xă hội, biểu lộ t́nh cảm và
được dùng làm lễ vật trong những dịp cưới
xin, tang ma, cúng tế gia tiên và thần linh.
3. Tục Mời Trầu
Tục mời
trầu ở xứ ta cho thấy, trầu cau là
phương tiện không thể thiếu trước
nhất trong những nghi thức giao tế hằng ngày
ngoài xă hội. V́ "Miếng trầu là đầu câu
chuyện", là "đầu tṛ tiếp khách", nên chi
vừa gặp nhau, sau mấy tiếng chào hỏi,
người ta liền mở trầu mời ăn rồi
mới nói ǵ th́ nói, bàn ǵ th́ bàn:
- Có trầu th́
giở trầu ra
Trước là đăi bạn, sau ta với ḿnh.
Người ta c̣n mời trầu để bắt
chuyện làm quen:
- Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là?
- Xưa kia ai biết ai đâu,
Chỉ v́ điếu thuốc, miếng trầu nên quen.
Nhất là khi
tới chỗ xa lạ, muốn được đón
nhận vui vẻ, người khôn ngoan phải có cơi
trầu đem ra mời chào mọi người để
gây thiện cảm. Nếu v́ một lẽ ǵ mà thiếu
sót th́ họ sẽ vô cùng áy náy, băn khoăn:
- Nhẽ th́ có
khẩu trầu hoa
Hiềm v́ chợ vắng, nhà xa thế nào.
Nghĩ sao đây, hỡi anh hào
Lấy ǵ tiếp đăi mà chào chị em?
Lại nữa, người xưa thường cho rằng
ăn trầu lúc nào là được hưởng chút
hương vị cuộc đời lúc đó, kẻo
thời gian vùn vụt trôi qua, già lúc nào không biết.
- Lại đây ăn một miếng trầu
Nữa mai tuyến nhuộm mái đầu huê râm.
Trong phạm vi
t́nh yêu và hôn nhân, tục mời trầu đă
được người b́nh dân khai thác triệt
để. V́ trầu cau c̣n là lễ vật cưới xin
nên những h́nh ảnh, màu sắc, hương vị
của trầu, cau, vôi... luôn luôn gợi ư cho thanh niên nam
nữ liên tưởng tới những chuyện t́nh yêu, chuyện
duyên phận lứa đôi:
- Vào vườn
hái quả cau non,
Anh thấy em gịn muốn kết nhân duyên.
- Phấn trắng hơn vôi, vôi nồng phấn lạt,
Bởi anh thương nàng, mới lạc tới đây.
- Vôi nồng, trầu thắm ai ơi,
Gá duyên chồng
vợ ở đời trăm năm.
- Trầu xanh, cau
trắng, chay hồng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.
Thế nên
việc mời trầu người khác phái nhiều khi
phải hiểu là một cách tỏ t́nh gián tiếp, và
đồng thời cũng để ướm thử xem
t́nh cảm của người ấy đối với
ḿnh ra sao.
Thường th́
người con trai chủ động, mời trầu
trước:
- Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là chút nghĩa về sau mà chào.
và họ đă
không quên lợi dụng lúc mời trầu để tán
tỉnh các nàng:
- Trầu ăn là
nghĩa, thuốc xỉa là t́nh,
Đội ơn cha mẹ sinh ḿnh dễ thương.
- Trầu lên nửa nọc trầu vàng
Khéo khen phụ mẫu sinh nàng dễ thương.
Nếu
người con gái dứt khoát từ chối không nhận
trầu th́ dù sự từ chối ấy lịch sự,
tế nhị đến đâu cũng phải hiểu
đó là sự từ chối t́nh yêu:
- Thưa rằng
bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
C̣n như
người con gái chỉ tỏ ư ngần ngại, v́
muốn t́m hiểu thêm t́nh ư của đối
phương:
- Miếng trầu ăn nặng bằng ch́,
Ăn rồi em biết lấy ǵ trả ơn ?
Th́ người
con trai trong trường hợp này phải trấn an
liền, và thổ lộ rơ t́nh ư đứng đắn, xây
dựng của ḿnh:
- Miếng
trầu ăn nặng là bao,
Muốn cho đông liễu, tây đào là hơn.
- Miếng trầu là nghĩa tương giao,
Muốn cho đây đấy duyên vào hợp duyên.
Một khi
thấy ư hợp, ḷng ưa rồi người con gái
mới nhận trầu. Hành động này hàm ư chấp
thuận, thật là một cách bầy tỏ t́nh cảm
vừa kín đáo, tế nhị, vừa duyên dáng dễ
thương. Từ ngày nhận ăn miếng trầu
kết nghĩa tương giao, gắn bó trở về,
t́nh yêu của người con gái lớn dậy, làm thăng
hoa cuộc sống. Nàng trở nên xinh tươi,
đằm thắm:
- Từ ngày ăn
miếng trầu anh,
Cho nên má đỏ, tóc xanh đến giờ.
Và thường
để tâm hồn lăng mạn bay xa, mơ tưởng
về một ngày mai được sống trong hạnh phúc
lứa đôi với chàng, được cùng chàng thân
mật dùng chung một hộp trầu, một ống vôi:
- Ước ǵ
chung mẹ chung thầy
Để em giữ cái quạt này làm thân.
Rồi ra chung gối chung chăn,
Chung quần, chung áo, chung khăn đội đầu.
Nằm th́ chung cái giường tàu,
Dậy th́ chung cả hộp trầu, ống vôi.
Trở về
hiện tại, giây phút sung sướng nhất hiển
nhiên là giây phút nàng được thưởng thức
những miếng trầu t́nh ái do chàng trao tặng:
- Trầu này
đủ vỏ, đủ vôi
Đủ cau, đủ thuốc, đủ mùi xạ
hương.
Không ăn th́ bảo rằng thường
Ăn rồi th́ biết người thương thế
nào.
Nhất là
những miếng trầu ấy lại được
chàng quí hóa, trân trọng bọc trong chiếc khăn tay
trắng, dành riêng cho nàng:
- Trầu bọc
khăn trắng cau tươi,
Trầu bọc khăn trắng đăi người xinh xinh.
Ăn cho nó thỏa tâm t́nh,
Ăn cho nó thỏa sự ḿnh sự ta.
Phần nàng, nàng
cũng không quên sửa soạn sẵn những miếng
trầu thật đặc biệt:
- Khẩu trầu
chính là khẩu trầu
Ở giữa đệm quế, hai đầu thơm cay.
Có ăn mới biết đến cây
Có ăn mới biết trầu cay, trầu nồng.
rồi buộc trầu
trong dải yếm đào để đem tới tặng
lại chàng với tất cả tấm ḷng tŕu mến:
- Trầu em
buộc dải yếm đào
Hỏi người tri kỷ ăn vào có say?
Những kẻ đang yêu ăn trầu dễ say lắm.
Nhiều khi họ tự hỏi họ say v́ trầu hay say
v́ t́nh, v́ mê bóng sắc của nhau ?
- Tay ai như
ngọc, như ngà
Đưa trầu ta tưởng đưa ta miếng vàng.
Anh say nhan sắc của nàng
Hay say v́ miếng trầu vàng, cau tươi ?
Tất nhiên
cả hai rồi. Họ say v́ trầu, v́ trong hạt cau có
chất arécoline làm kích thích thần kinh, đồng thời
họ c̣n say v́ t́nh; nhưng say v́ t́nh mới là chính, chả
thế ca dao c̣n có câu:
- Yêu nhau trầu
vỏ cũng say
Ghét nhau cau đậu (6) đầy khay chẳng màng.
và
- Gặp nhau
ăn một khẩu trầu
Không mặn v́ thuốc, say nhau v́ lời.
Như thế
đủ thấy, những kẻ đang yêu
được ngồi ăn trầu bên nhau th́ dù trầu
có thiếu vị họ vẫn say như thường, v́
họ say t́nh nhau, say bóng sắc của nhau, say lời yêu
đương của nhau chứ nào có xá ǵ trầu!
T́nh yêu khi đă
đến lúc đắm say tất xa nhau sẽ nhớ
nhung, tương tư sầu khổ:
- Một
thương hai nhớ ba sầu,
Cơm ăn chẳng được, ăn trầu cầm
hơi.
Thương chàng lắm lắm chàng ơi,
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than ?
Nàng thở than những ǵ đây ?
- Từ ngày ăn
phải miếng trầu,
Miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu.
Biết là thuốc dấu hay bùa yêu
Làm cho thiếp phải nhiều điều xót xa.
Làm cho quên mẹ, quên cha
Làm cho quên cử, quên nhà
Làm cho quên cả đường ra, lối vào
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời.
Trong vấn
đề t́nh yêu và hôn nhân, không phải bao giờ
người con gái cũng ở thế thụ động,
như ca dao đă chứng tỏ, có nhiều trường
hợp nếu người con gái bạo dạn một
chút, lanh lợi một chút, và cũng phải biết
tế nhị nữa th́ có thể lợi dụng tục
mời trầu để tự kén chọn cho ḿnh một
người bạn t́nh trăm năm. Thật thế, như
khi đă gặp được người vừa ư
rồi mà đối phương lại quá nhút nhát như
anh chàng này chẳng hạn :
- Thương em
chẳng dám trao trầu
Để trên bó mạ, gió nam lầu thổi qua.
Nếu người con gái cũng lại chấp nê, thụ
động th́ cuộc t́nh này đành để cho gió bay
đi. Trái lại, nếu người con gái khôn ngoan,
biết mở lời bóng gió đưa duyên th́ có thể
khích lệ đối phương tiến tới:
- Có trầu mà
chả có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau th́ làm.
Đúng ra phải nói là:
- Có trầu mà chả có vôi
Làm sao cho đỏ môi tôi th́ làm.
Chả v́ theo
lời giải thích của Thúc Nguyên, "vôi phản
ứng trên những polyphénols thuộc nhóm flavone của lá
trầu và miếng cau bằng cách ô-xít hóa chúng và biến
chúng thành orthoquinones. Sự việc này làm cho nước
bọt người nhai trầu trở thành đỏ".
Như thế, có trầu đă đành, c̣n phải ăn
thêm với vôi mới làm đỏ được môi.
Cũng như trong t́nh yêu, một người đă lên
tiếng, kẻ kia phải đáp lời ; t́nh yêu song
phương mới thực sự tạo được
hạnh phúc lứa đôi.
Lại những
khi chưa biết rơ đối phương đối
với ḿnh ra sao, người thiếu nữ cũng đă
biết mượn miếng trầu để ḍ ư,
ướm t́nh :
- Trầu đă có đây, cau đă có đây
Nhân duyên chưa định, trầu này ai ăn?
Trầu này trầu túi, trầu khăn,
Trầu này dải yếm, anh ăn trầu nào?
Nếu
người con trai nhận ăn "trầu dải
yếm" là những miếng trầu thiết thân của
nàng th́ nàng hiểu ngay là đối phương đă
thầm xác nhận có yêu nàng, và những mong cùng nàng kết
mối lương duyên; bằng không chỉ là bạn
thường, v́ bạn thường th́ chỉ
được phép ăn "trầu khăn",
"trầu túi" của nàng mà thôi.
Lại những
khi người con gái đă lỡ yêu rồi th́ nàng cũng
dám tấn công trước qua miếng trầu tỏ t́nh:
- Vào vườn
hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu.
Trầu này têm những vôi tàu (7)
Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay.
Trầu này ăn thật là say
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng
Dù chẳng nên vợ nên chồng
Xơi dăm ba miếng, kẻo ḷng nhớ thương.
Miếng trầu
đối với nàng lúc này không chỉ là một vật
chất đơn thuần mà là một biểu
tượng của t́nh yêu, nói khác đi, nó chính là t́nh yêu
của nàng đă hóa thân:
- Trầu này
trầu quế, trầu hồi
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu ḿnh.
Trầu này trầu tính, trầu t́nh
Trầu nhân, trầu nghĩa, trầu ḿnh, trầu ta.
Trầu này têm tối hôm qua
Dấu cha dấu mẹ, đem ra mời chàng.
Nhưng không
phải hễ người con gái mời trầu là bao
giờ cũng được bọn nam nhi đón nhận
sốt sắng cả đâu. Nhiều chàng trai có tính đa
nghi lắm, lại luôn luôn được phụ mẫu
nhắc nhở, căn dặn: "Ra đường
thấy con gái mời trầu th́ chớ có ăn, nó bỏ
bùa yêu, thuốc dấu cho là khốn, rồi đến
bỏ cả học hành thôi". Thế nên nhiều chàng
đă tỏ ra rất dè dặt trước những
miếng trầu mời mọc của các nàng, bởi
vậy mới có cái cảnh mời trầu nài nỉ:
- Trầu này không
phải trầu hàng
Không bùa, không thuốc sao chàng không ăn ?
Hay là chê khó, chê khăn
Xin chàng dừng lại làm ăn miếng trầu.
Rất may việc
này xẩy ra cũng hi hữu thôi, v́ các cụ ta khi xưa
đă dạy cho người thiếu nữ biết cách
từ chối nhận trầu th́ cũng lại dạy cho
người thanh niên phải biết nhận trầu, có
thế mới ra con người lịch sự:
- Tiện đây
đưa một miếng trầu
Không ăn, cầm lấy cho nhau bằng ḷng.
4. Trầu Cau Trong Nghi Lễ Cưới
Hỏi
Người b́nh
dân Việt Nam xưa nhờ vào hoàn cảnh sống gần
gũi với thiên nhiên, nhờ điều kiện sinh
hoạt tập thể về nông nghiệp, hội hè, hát xướng,
lại nhờ vào tục mời trầu của xă
hội... đă giúp cho t́nh yêu của họ dễ dàng
nẩy nở, cởi mở, hồn nhiên. Dù thế nào
chăng nữa, t́nh yêu của họ cũng không cuồng
nhiệt, tự do quá trớn đến vượt ra khỏi
ṿng lễ giáo gia đ́nh và phong tục xă hội.
Thực tế,
người thiếu nữ vẫn hằng nhủ ḷng
"áo mặc sao qua khỏi đầu", nên khi vừa
bước vào cuộc t́nh là không quên nhắc nhở
bạn về thủ tục đầu tiên:
- Thương tôi
rượu chén, trầu cơi
Đến cùng phụ mẫu, đến nơi sinh thành.
Nếu
người con trai c̣n nghi ngại:
- Tốn hao anh chẳng màng chi
Chỉ e lỡ dở uổng th́ trầu cau.
th́ người
con gái xin hứa trước một lời để
bạn vững dạ về tŕnh cha mẹ, rồi nhờ
mai dong đến thưa chuyện cùng song thân nàng:
- Đợi lệnh song thân em phải vậy
Song em quyết một lời rồi, anh hăy cậy mai dong.
Người con
trai sau khi đă được lời hứa chắc
của bạn ḷng , mặt mày hớn hở, đi khoe cùng
làng, khắp xóm:
- Tôi về thưa với mẹ cha
Chạy lo sáu lễ đem qua cưới nàng.
Nhưng khi vào
chuyện rồi người ta mới thấy trong ba
việc khó khăn ở đời mà người xưa
đă từng xác nhận qua câu tục ngữ:
- Tậu trâu,
cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay!
th́ việc
cưới xin, việc hệ trọng nhất trong
cuộc đời của mỗi con người, là khó
khăn nhất, nghi thức cũng nhiêu khê nhất, và
tốn kém nhất.
Trước
hết, nhà trai phải đem phẩm vật đến
cầu cạnh người mai mối, nḥ họ chuyển
lời cầu hôn đến nhà gái, đúng như phong
tục đă định:
- Mâm trầu
hũ rượu đàng hoàng
Cậy mai đến nói phụ mẫu nàng mới xong.
Khi ông mai, bà mối đă tŕnh bầy tự sự, nhà gái
thấy xứng đôi (xưa theo tiêu chuẩn môn
đăng hộ đối) th́ ưng, liền cho so
đôi tuổi cô dâu, chú rể; tuổi tác có hợp rồi
mới bắt đầu tính đến chuyện
cưới hỏi. Đâu đấy xong xuôi, hai bên gia đ́nh
nhà trai, nhà gái cho tiến hành các thủ tục hôn phối.
Bắt
chước Trung Hoa, tất cả phải trải qua sáu
lễ. Ịó là:
- Lễ Nạp
thái c̣n gọi là lễ sơ vấn, nhà trai đưa
lễ vật để tỏ ư đă kén chọn. Lễ
này nôm na gọi là lễ chạm ngơ hay lễ giạm
vợ.
- Lễ Vấn danh: hỏi tên tuổi và họ
người con gái.
- Lễ Nạp cát: báo cho nhà gái biết đă bói
được điềm tốt.
- Lễ Thỉnh kỳ: xin định ngày cưới.
- Lễ Nạp tệ: tệ là lụa, nghĩa là đem
lụa hay phẩm vật quí đến nhà gái, nói chung là
đem đồ sính lễ đến nhà gái trong ngày lễ
cưới.
- Lễ Thân nghinh: lễ đón dâu.
Sáu lễ kể
trên về sau ta giảm xuống c̣n ba là lễ Sơ
vấn (chạm ngơ), lễ Vấn danh (ăn hỏi) và
lễ Thân nghênh (đón dâu). Nghi thức cũng đă
được thay đổi phần nào cho hợp với
phong cách Việt Nam. Theo phong tục của nước ta
th́ cả ba lễ này, trầu cau đều là lễ
vật căn bản (7).
- Lễ chạm
ngơ: nhà trai chỉ phải đem tới nhà gái vài gói trà, vài
chai rượu và một nhánh cau cùng một xấp lá
trầu (tất cả đều phải đi số
chẵn). Theo tục lệ trong Nam th́ ngoài trà rượu
bánh mứt, nhà trai c̣n đem tới nhà gái một khay trên bầy
2 cái chung (ly) nhỏ, 1 nậm rượu và 1 cơi
trầu têm sẵn 4 miếng, để mời anh chị
sui mà trực tiếp thưa chuyện giạm vợ cho
con.
- Chiếc khăn
nhiễu tím đội đầu
Quai thao, nón thúng, cơi trầu cầm tay
Xu xê, bánh cốm, bánh dầy
Anh nhờ cả mẹ cùng thầy đưa sang.
Nếu cô dâu, chú
rể tương lai chưa hề biết nhau th́ đây
chính là dịp họ được thấy mặt nhau, nên
lễ này c̣n gọi là lễ xem mặt. Người
thiếu nữ từ ngày nhận trầu cau coi như
đă là dâu con nhà người, tục ngữ có câu:
"Miếng trầu nên dâu nhà người" là vậy.
Tuy nhiên lễ chạm ngơ không quan trọng mấy, v́ dù sao
mới chỉ là "giạm", nghĩa là ướm
hỏi trước giữa hai gia đ́nh mà thôi. Do đó sau
này v́ lẽ ǵ một bên muốn băi bỏ th́ cũng dễ
dàng, chỉ cần thông báo cho bên kia biết chứ không
phải thưa kiện, bồi thường ǵ. Thế nên
tục ngữ lại có câu: "Miếng trầu chạm
ngơ là miếng trầu bỏ đi".
- Lễ ăn
hỏi: trong Nam lễ vật quan trọng nhất kỳ
này là trầu cau, rượu trà và cặp đèn cầy
để lễ gia tiên bên gái. Ở ngoài Bắc, xưa có
lệ vào dịp lễ ăn hỏi, nhà gái chia phần
trầu bánh cho bà con họ hàng, xóm giềng, bạn bè
để báo tin lễ đính hôn chính thức của
đôi trẻ; v́ thế nhà trai phải dẫn cho
đủ số trầu cau, trà bánh, nem trạo để
nhà gái biếu xén.
Sau lễ ăn
hỏi, hai gia đ́nh mới bàn đến chuyện đám
cưới. Theo phong tục xă hội Việt Nam xưa, nhà
gái được quyền thách cưới. Ngoài vụ
thách cưới áo quần, chăn chiếu, màn gối,
nữ trang cho cô dâu, nhiều bậc cha mẹ c̣n đ̣i
thách cưới cả tiền mặt để trang
trải cỗ bàn thết đăi hai họ, cùng là ruộng
vườn, trâu ḅ cho đôi vợ chồng mới ra riêng
lập nghiệp. Nhiều chàng trai nhà nghèo, không theo
được đành phải mất vợ.
- Vắn tay
với chẳng tới kèo
Cha mẹ anh nghèo, cưới chẳng đặng em.
Từ lễ
ăn hỏi đến lễ cưới khoảng
một hai năm, người con trai phải sêu tết nhà
vợ. Theo tài liệu trong Việt Nam Phong Tục của
Phan Kế Bính th́ bốn mùa xuân hạ thu đông, mùa nào
thức nấy. Tháng ba th́ sêu vải; tháng năm sêu dưa
hấu, đường, ngỗng; tháng chín sêu cốm,
hồng, gạo mới, chim ngói; tết sêu bánh mứt, cam
bưởi.
Không sêu mà xin
cưới th́ người ta cho là thiếu lễ.
- Lễ đón dâu: sáng sớm ngày lễ đón dâu, chính bà
mẹ chồng đích thân mang một cơi trầu, ngoài
phủ khăn điều, trong đựng 6 miếng
trầu, tượng trưng đủ 6 lễ, đem
tới nhà gái để xin dâu cho trịnh trọng (nếu
bà mẹ chồng mất sớm mới phải nhờ
tới cô, bác hay người chị lớn của chú
rể đi thay). Ịồng thời báo cho nhà gái biết
trước giờ phái đoàn nhà trai đến để
sửa soạn nghênh tiếp.
Phái đoàn đón
dâu đi đầu là vị chủ hôn (phải là
người trọng tuổi, vợ chồng song toàn, con
cái đề huề, kén chọn trong gia đ́nh họ hàng
chú rể), sau đến vợ chồng người mai
dong, tiếp theo là đoàn người đội phù trang
mang đồ sính lễ, gồm trầu, cau (nguyên
buồng), trà rượu, bánh mứt, xôi heo... Với
người miền Nam c̣n phải thêm đôi đèn cầy
lớn, trạm rồng phượng và đôi bông tai (hoa
con gái) cho cô dâu. Chú rể, bà con đi sau chót.
Cặp đèn
cầy nhà trai đưa tới được thắp sáng
trên bàn thờ gia tiên nhà gái, một phần lễ vật
đem ra bầy cúng. Sau khi lễ gia tiên, (4 lạy, 3 vái) cô
dâu chú rể lạy tạ cha mẹ vợ (2 lạy, 1 vái),
đoạn đi chào ra mắt cùng mời trầu, mời
thuốc chú bác, cô d́ nhà gái ; đồng thời họ
nhận được tiền phong bao cùa họ hàng. Xong
xuôi, lễ vật c̣n lại với cỗ bàn được
bưng ra, đăi đằng hai họ:
- Anh hai đi
cưới chị hai,
Mâm trầu, hũ rượu tốn hai mươi
tiền.
C̣n dư mua chả mua nem
Mua cặp lồng đèn, hai họ cùng lên.
Ông cai, ông kư ngồi trên
Sui gia ngồi dưới, hai bên họ hàng.
Mọi
người ăn uống say sưa, chuyện tṛ vui
vẻ; chờ tới giờ hoàng đạo (giờ tốt)
mới đón dâu về nhà chồng.
Về tới
đằng trai, cô dâu, chú rể lễ gia tiên trước
rồi mới lễ tơ hồng (chủ đích tạ
ơn Nguyệt Lăo đă xe duyên đôi lứa) .Lễ tơ
hồng cốt yếu có đĩa trầu cau, đĩa
sôi gấc trên đặt con gà trống thiến luộc,
mỏ cắm một bông hồng đỏ và đôi
bạch lạp.
Theo tài liệu
của Ịỗ Th́ Kênh G, trên nguyệt san Thế Kỷ
21 số 88 th́ lễ gia tiên cũng như lễ tơ
hồng lúc này đều có bài bản sẵn. Có thể
mỗi gia đ́nh soạn một bài riêng, nhưng đại
khái cũng không khác nhau là bao.
Thí dụ lễ
gia tiên:
- Cung cúc bái trước bàn thờ
Kính dâng lễ bạc hương hoa rượu trầu
Cùng là phẩm vật trước sau
Ḷng thành tâm nguyệt thỉnh cầu gia tiên...
Lễ gia tiên xong,
cô dâu chú rể ra sân, quỳ trước bàn thờ
Nguyệt Lăo để lễ tơ hồng:
- Cung duy tơ
hồng... Nguyệt Lăo thiên tiên
Xích thằng giao cấu kết nhân duyên.
Gối phượng, chăn loan tưng bừng đôi
lứa
Chèo lan, lái quế êm ấm một thuyền...
Người
chủ tế vừa hoàn tất việc xướng
lễ, bái lễ, chú rể bước tới bàn thờ,
nâng chung rượu uống nửa rồi trao cho cô dâu
nhắp phần c̣n lại, đoạn rón 2 miếng
trầu trong cái đĩa đặt trên bàn thờ, chia cho
cô dâu một miếng, xong hai người cùng ăn. Để
kết thúc buổi lễ tơ hồng, người
chủ tế nhấc hai cây bạch lạp trên ban thờ xuống
cho châu đầu vào nhau để hai ngọn lửa
nhập làm một, đoạn thổi tắt, hàm ư vợ
chồng từ nay sống chết cùng nhau, không rời
bỏ nhau.
Sau lễ tơ hồng, cô dâu chú rể vào nhà lạy cha
mẹ chồng cùng chú bác bên chồng, lại
được tiền phong bao nữa.
Buổi tối, mâm
cỗ lễ tơ hồng được hạ xuống
cho cô dâu chú rể ăn chung.
Hôm sau ngày
cưới gọi là ngày nhị hỉ hay ba hôm sau gọi
là ngày tứ hỉ, cô dâu chú rể đem heo, xôi - sau này
được thay bằng trà rượu - về bên
ngoại cúng từ đường, thăm nhà và đi chào
cùng cám ơn bà con cô bác.
Tục lệ
thách cưới và dẫn lễ này không chỉ áp dụng
trong dân gian mà ngay cả trong triều nội.
Theo tài liệu
của Ông Tiến Hưng, đăng trong báo Thế Kỷ
21 số 84, cho biết, vua Thiệu Trị có em gái là công
chúa Hương La, đến tuổi kén chồng. Các quan
trong triều và hội đồng hoàng gia thấy ông Hoàng
Kế Viêm đỗ cử nhân, 23 tuổi, là người
hiền đức, lại là con cụ Hoàng Kim Xán, nổi
tiếng hiếu hạnh, có bài vị thờ tại
miếu Hiền Lương, nên đồng thanh tiến
cử làm pḥ mă và được chuẩn y (mặc dầu
ông đă có vợ và có 1 con gái, đang sống cùng mẹ
chồng tại làng Văn La, Quảng B́nh). Ịám
cưới công chúa trước sau đủ 6 lễ
rườm rà, mỗi lễ đều có lễ vật,
tính chung gồm 2 mâm trầu cau, 2 trâu, 2 ḅ, 3 heo, 4 ché
rượu, 2 cây gấm, 12 cây lụa, 10 nén vàng, 36 nén
bạc và 2 chuỗi ngọc. Ngoài ra c̣n các thứ lặt
vặt khác như 2 hộp chỉ ngũ sắc, 100
đồng tiền tượng trưng sự phú quí, 2 lá
thiên tuế tượng trưng cho sống lâu, 2 con
ngỗng thay cặp nhạn ở xứ ta không có (chim
nhạn không ĺa đôi).
Nghi lễ ấn
định như thế, nhưng sau Bộ Binh và Bộ
Lại tâu lên vua về gia cảnh nhà trai nên nhà vua chấp
nhận mọi chuyện chi phí về hôn lễ sẽ do công
bố đài thọ.
Từ nửa
đầu thế kỷ XX trở đi, các nghi lễ
cưới xin nào quá rườm rà và không hợp lẽ
đă bị nhiều nhà văn, nhà báo tiến bộ như
nhóm Phong Hóa, Ngày Nay... viết sách viết báo đả kích
kịch liệt. Như chuyện thách cưới chẳng
hạn, sự đ̣i hỏi quá lố của nhà gái có khác ǵ
bán con? Khẩu ngữ "gả bán" cũng từ
đấy mới có. Nhiều nhà trai nghèo phải vay nợ
để cưới dâu nên đem ḷng oán hận,
cưới được dâu về rồi cha mẹ chồng
mới hành hạ cho đáo để:
- Mất tiền
mua mâm
Bà đâm cho
thủng.
Chỉ v́ cha
mẹ tham của hay v́ chút tự ái, thích huênh hoang với
xóm làng ra cái điều con gái ta cao giá mà để cho con
phải chịu đọa đầy. Đă vậy, hai vợ
chồng trẻ c̣n phải làm việc c̣ng lưng, tróc da,
trầy vẩy để trả nợ cưới mà măi
vẫn không xong.
Những tục
lệ nào phiền nhiễu và vô lư như thế, không
chỉ bị đả kích mà c̣n v́ xă hội đă có
nhiều đổi thay, chiến tranh kéo dài, kinh tế khó
khăn, tiêm nhiễm văn minh tây phương nên chúng
đă phải suy giảm rơ rệt. Tuy nhiên ở ngoài
Bắc trước năm 1954, và ở trong nam trước
năm 1975, lễ ăn hỏi vẫn c̣n giữ lại
tục lệ chia trầu cau, trà và bánh mứt
(thường là bánh dầy, bánh chưng, sau mới
đổi ra bánh xu xê - chính là bánh phu thê - hay bánh quế, bánh
cốm, mứt sen) cho bà con họ hàng, xóm giềng và
bạn bè. Tất nhiên nhà nào nghèo th́ chỉ cần chia
trầu cau với gói trà nhỏ cũng đủ.
Xưa kia trong Nam
chưa có tục chia trầu cau th́ lại có tục gửi
rể. Trong khoảng thời gian từ lễ giạm
đến lễ cưới kéo dài hai ba năm,
người con trai phải về nhà vợ ở rể,
giúp đỡ cha mẹ vợ mọi việc khi
được yêu cầu, thường là những công
việc nặng nhọc như cầy cấy, tát
nước, dọn nhà, đào giếng... ăn uống th́
lại kham khổ khiến nhiều chàng đă phải than
thở:
- Trời mưa
cho ướt lá khoai
Công anh làm rể đă hai năm ṛng
Nhà em lắm ruộng ngoài đồng
Bắt anh tát nước, cực ḷng anh thay.
Tháng chín mưa bụi, gió bay
Cất lấy gầu nước, chân tay rụng rời!
Chẳng qua chàng
trai này v́ nhà nghèo, không đủ điều kiện
cưới vợ nên khi ở rể phải làm những
công việc nặng nhọc để đền bù...
nhờ vậy nhà gái mới chịu gả con cho.
Trái lại,chàng
trai nào chữ nghĩa lầu thông th́ chẳng những nhà
vợ nể v́ mà c̣n được phục dịch là
đằng khác:
- Ham chi rể
học hơn người
Ngồi trên
phản vọng c̣n đ̣i lửa lư.
(phản vọng
là phản kê ở gian giữa, lửa lư là lửa than
trong cái đỉnh nhỏ, dùng để mồi thuốc
hút)
Như thế ai dám bảo cứ "ở rể" là
khổ ?!
5. Tục cheo cưới
Ở xứ ta những
tục lệ liên quan tới việc cưới xin th́ ngoài
những lễ nghi đă tŕnh bày ở trên, c̣n một
tục lệ rất đặc biệt và cũng rất
quan trọng là tục nộp cheo (tục này không có ở
Trung Hoa).
- Nuôi lợn th́ phải vớt bèo
Cưới vợ th́ phải nộp cheo cho làng.
Nộp cheo là ǵ? Khi
người con trai muốn cưới vợ th́ phải
nộp một khoản tiền hay vật liệu cho làng xă
bên người con gái (gọi là cheo ngoại) để
chứng thị lễ hôn nhân, rồi xin tờ cheo ở lư
trưởng trong làng, tương tự như tờ hôn
thú ngày nay.
Muốn cám ơn những
hương chức đă xét và đă chấp nhận
cuộc hôn phối của họ là phải phép,
người con trai ngoài tiền nộp cheo c̣n phải
dẫn thêm xôi thịt, trầu cau, trà rượu
để khao đăi các vị.
- Ông xă đánh trống th́nh th́nh
Quan viên mũ áo ra đ́nh ăn cheo.
Bằng chưa nộp cheo,
chưa khao đăi th́ dù đám cưới đă
được cử hành trọng thể giữa hai
họ đến thế nào, làng cũng không cần
biết, và coi đôi trẻ như chưa thành vợ, thành
chồng.
- Ai chồng ai vợ mặc ai
Bao giờ ra bảng, ra bài sẽ hay.
Bao giờ tiền cưới trao tay
Tiền cheo rấp nước mới hay vợ chồng.
Cuộc nhân duyên này sẽ
không có ǵ là vững chắc v́ không được làng
bảo vệ:
- Có cưới mà chẳng có cheo
Nhân duyên trắc trở như kèo không đinh.
Trai gái cùng làng lấy nhau th́
tiền cheo có được giảm bớt (gọi là cheo
nội).
Lệ nộp cheo này có xuất xứ từ tục "lan
nhai", tức tục bọn trẻ trong làng nhà gái
giăng dây tơ hồng (lụa đỏ) ở cổng
hay trên đường làng để đón mừng hôn
lễ, có nơi c̣n đốt pháo. Ịể cảm
ơn, nhà trai mời trầu và thưởng tiền. Dây
được cởi ra, đoàn đón dâu tiếp tục
lên đường. Về sau nhiều người có ư
đồ bất chính, họ giăng dây làm trở ngại
đường đi với mục đích ṿi tiền.
Tiền không nộp đủ, họ không cởi dây cho
đi, hoặc họ cắt dây và nói những lời không
hay. Nhà trai sợ xui, đồng thời sợ trễ
giờ tốt, cứ phải nộp tiền hết
chặng này đến chặng khác. Tục "lan nhai"
trở thành một tục lệ xấu. Triều đ́nh
thấy vậy ra lệnh băi bỏ và thay vào đấy, cho
phép làng được thu tiền cheo. Tiền này sẽ
được làng chi dùng vào những việc công ích.
6. Nghệ Thuật Têm Trầu Bổ Cau
Chúng ta cũng nên biết,
trầu cau không chỉ được têm để ăn
hay đăi khách hằng ngày mà c̣n được dùng làm
tặng phẩm hay làm lễ vật trong các dịp cúng
Phật, tế lễ thần linh, cúng gia tiên hay trong tang
lễ, hôn lễ v.v...
Lễ Phật và tế
thần linh th́ trầu phải để nguyên lá, cau
phải để nguyên trái. Riêng lễ bàn thờ gia tiên th́
bao giờ trầu cau cũng được têm sẵn
để trong cơi hay trên đĩa. Đặc biệt trong
lễ cưới, từ miếng trầu đi xin dâu,
trầu đặt trên bàn thờ gia tiên hay bàn thờ
lễ tơ hồng, hay ngay cả trong các cơi trầu
để thết đăi bà con họ hàng đều
nhất nhất được o bế cẩn thận. Cau
phải bổ làm sao, trầu phải têm thế nào cho có
nghệ thuật.
- Cau non tiễn chũm
hạt đào
Trầu têm cánh phượng rọc dao Lưu Cầu.
Tại sao thế ? V́ quả
cau có cùi cứng, dao phải sắc bổ cau mới
ngọt, trông mới ngon, cau già cũng tưởng là non:
- Cau già, dao sắc lại non
(Nạ ḍng trang điểm lại gịn hơn xưa).
Dao sắc đă có,
người ta bắt đầu róc vỏ cau, nhưng
phải khéo v́ chỉ cắt vứt đi chừng 1/3
vỏ phía dưới thôi, rồi tiễn chũm. Xong
đâu đấy, lấy loại dao tỉa thủy tiên
khắc hoa trên phần vỏ xanh c̣n lại. Quả cau
trổ hoa hay không đều được bổ dọc
chia làm 5 hay 6 phần đều nhau, khi ăn th́
tước bỏ chỗ vỏ xanh đi.
Muốn têm trầu cánh
phượng th́ người ta gấp lá trầu làm hai theo
chiều dọc, đoạn đưa một nhát dao
hơi xéo vào hai bên phiến lá, khoảng từ giữa lá
lên phía cuống, nhưng không được để
đứt. Phần giữa lá, xén bỏ hai bên mép lại
cho thẳng như têm trầu ăn thường ngày,
đoạn phết một chút vôi ở giữa, rồi
cuộn tṛn lại; sau đó dùi một lỗ ở
giữa cuộn trầu, xong gài cuống lá vào cho chặt.
Hai rẻo lá h́nh cong được cắt gần sát
cuống lúc đầu, v́ không cuộn nên vểnh lên trông như
hai cánh con chim phượng.
Hai rẻo lá h́nh cong vểnh
lên ở hai đầu cuộn trầu trông cũng
giống h́nh vành trăng non lưỡi liềm, mà theo
thần thoại Trung Hoa th́ trên cung trăng, nơi Hằng
Nga ở có cây quế nên cung trăng c̣n được
gọi là cung quế, và trầu cánh phượng cũng
được gọi là trầu cánh quế.
Têm trầu cánh kiến
cũng vậy thôi, chỉ khác là thay v́ rọc một
đường khá rộng (1cm) hai bên phiến lá th́
người ta rọc làm hai, ba đường hẹp, rẻo
lá vểnh ra có nhiều cánh nhỏ trông như những cánh
của con kiến x̣e ra vậy.
Ngày xưa người đàn
bà nào mà chả biết têm trầu, bổ cau? Nhưng têm
khéo hay không lại là một chuyện khác. Dù sao miếng
trầu têm có nghệ thuật cũng làm tôn được
giá trị về nữ công, về tài khéo của
người phụ nữ. Bởi thế, trong nhiều
hội làng, theo tài liệu của Phan Kế Bính trong
Việt Nam Phong Tục, người ta vẫn thường
tổ chức các cuộc thi têm trầu bên cạnh các
cuộc thi nấu cỗ, thổi cơm, làm bánh...
để khuyến khích con em.
Miếng trầu têm vô h́nh trung
c̣n phản ảnh cá tính của người têm nó. Thật
thế, nh́n h́nh ảnh cuộn trầu trông lùng bùng hay tṛn
trịa, mực thước hay bay bướm; lại qua
hương vị của miếng trầu khi thưởng
thức, nhạt hay vừa hay mặn vôi, cay thơm d́u
dịu hay cay nồng v́ quế v́ hồi mà đoán biết
được phần nào tính nết chủ nhân của nó:
cẩu thả hay cẩn thận, vụng về hay khéo léo,
giản dị hay cầu kỳ, điềm đạm hay
nồng nhiệt ...
Chính nhờ miếng trầu
têm cánh phượng xinh đẹp, nhà vua trong truyện
cổ tích Tấm Cám đă thấy lại những nét thân quen
xưa mà nh́n ra vợ.
Chẳng những tính nết
người phụ nữ lộ ra qua h́nh dáng, qua
hương vị miếng trầu têm mà c̣n lộ ra cả
trong cách chọn mua từng lá trầu, quả cau nữa
kia. Ca dao có câu:
- Mua cau chọn những
buồng sai
Mua trầu chọn những trăm hai lá vàng
Cau tiễn ngang, trầu vàng ngắt ngọn
Thời buổi này kén chọn nữa chi
Sao em chả lấy chồng đi!
Ngày xưa những bà
những cô nhiều kinh nghiệm, khi đi mua cau th́ cứ
buồng sai nhắm trước, sau đó mới kén
đến quả, v́ hễ buồng nào có được
một quả cau ngon là cau cả buồng đó đều
ngon. Bởi vậy kén được buồng cau ngon
cũng không mấy mất công. Cau ngon là cau có dáng trái
đào, vỏ màu xanh thúy ngọc nhạt, được
mệnh danh là vỏ mă lụa, cùi mềm, thịt trắng
nơn và dầy, hạt th́ phơn phớt ḷng tôm; nhai sẽ
thấy gịn, sau lại dẻo và ngọt. Trái lại cau nào
vỏ xanh xẫm xịt, thịt teo, hạt nâu đậm
và có gân trắng là cau già, nhai sẽ thấy cứng và trát.
Mua trầu th́ khác, phải kén
từng lá. Lá trầu nào xanh x́ là lá già (mọc gần
gốc), ăn sẽ cay. Trái lại, lá trầu nào có màu xanh
ngả vàng là trầu non (mọc phía ngọn), ăn sẽ
thơm và cay dịu. Trầu này được gọi là
trầu vàng hay trầu ngọt, trong khi trầu xanh th́
gọi là trầu cay.
Như thế đủ
thấy người thiếu nữ này quá kỹ
lưỡng. Chọn mua cau, mua trầu, soát lá c̣n cẩn
thận đến thế th́ kén chồng phải kỹ
đến đâu! Chả trách giờ này nàng vẫn chưa
chồng khiến cho bao chàng trai phải sốt ruột
hộ!
Nhưng tại sao lại
phải ngắt lá trầu vứt đi trước khi têm?
Theo tài liệu của Hương Giang Thái Văn Kiểm
th́ chuyện này có một xuất xứ mà ít người
c̣n nhớ.
Chuyện kể rằng vào
đời chúa Hiếu Minh Nguyễn Phúc Nguyên (1691 - 1725), O
Thảng về làm dâu bà Hương bên chợ Dinh. Nhằm
ngày rằm tháng bẩy năm Canh Tư (1720), O Thảng ngoáy
trầu cho mẹ chồng ăn như thường
lệ, nhưng lần này ăn xong bà cụ ngộ
độc, lăn ra chết. O Thảng bị nghi bỏ
thuốc giết mẹ chồng nên bị bắt ngay. Trên
quận tra khảo thế nào O Thảng cũng một
mực kêu oan.
Nhân dịp quan Nội Tán kiêm
Án Sát Sứ Nguyễn Khoa Đăng về Hồ Xá (1722), bà lư,
mẹ O Thảng đội đơn xin quan tái xét
để minh oan cho con gái. Nội Tán t́m hiểu xuất
xứ lá trầu bà Hương ăn, biết là trầu
nguồn đến từ thượng du Thuận Hóa, do
ông em đem về biếu. Ngài liền lên núi, đến
tận Cà Lơ thăm nhà người bán trầu nguồn.
Sau ba ngày ḍ xét, ngài phát giác chính rắn hổ mang nơi
đây là thủ phạm, loại rắn độc này
được tụi Cà Lơ nuôi để lấy
nọc, tẩm tên đi săn. Rắn hổ mang đă leo
lên dây trầu, liếm giọt sương đầu
ngọn lá rồi nhấm nhấm, do đó lá bị
ngấm độc.
Chuyện phát giác ra, O
Thảng được minh oan và được trả
tự do ngay. Từ đó chúa Hiếu Minh ra lệnh cho
thần dân, mỗi khi têm trầu phải ngắt ngọn
lá vứt đi để tránh hậu họa.
Tập quán này lâu đời
bị quên xuất xứ, chỉ c̣n truyền lại câu ca
dao nhắc nhở:
- Ăn trầu phải
mở trầu ra
Một là thuốc độc hai là mặn vôi.
7. Miếng
Trầu Trong Cách Ứng Xử Đối Với Tha Nhân
Từ việc dùng trầu
trong vấn đề xă giao, người b́nh dân xưa
đi xa hơn đến việc mượn trầu cau
để nói lên quan niệm ứng xứ và bầy tỏ
t́nh cảm của ḿnh đối với tha nhân.
- Đối với bạn bè, bà
con láng giềng: tục lệ chia trầu cau trong lễ
vấn danh (lễ ăn hỏi) cho khắp họ hàng
cũng như cho bà con láng giềng và bạn bè đă nói lên
đầy đủ quan niệm ứng xử của
người xưa, coi tất cả đều là anh em
một nhà, đều được chia vui (cũng như
sẽ buồn) như nhau. Một khi đă coi nhau như anh
em th́ cách đối xử tất dựa trên t́nh cảm,
yêu hay ghét cũng chỉ theo tinh thần "chín bỏ làm
mười": yêu th́ cho thêm một chút, ghét th́ bỏ
bớt một chút, chứ không thẳng thừng
"cạn tầu ráo máng". Thế nên:
- Yêu nhau cau bẩy bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.
Cách ứng xử theo t́nh
nghĩa này c̣n trải rộng đến khắp cả bà
con trong làng, ngoài nước, nói chung về những
người cùng một ṇi giống, một dân tộc, v́
tất cả đều là anh em ruột thịt, cùng
một bọc mẹ Việt sinh ra. Từ ngữ
Ẫđồng bàoỮ đă giải thích trọn vẹn
ư nghĩa này. Và theo thiểu ư, đây chính là một
truyền thống tốt đẹp nhất trong
đời sống văn hóa dân tộc. Một truyền
thống có giá trị tích cực, vĩnh cửa và phổ
cập đến mọi tầng lớp trong xă hội.
- Đối với cha mẹ, qua
miếng trầu, buồng cau người con gái tỏ
được sự săn sóc và ḷng hiếu kính.
Khi c̣n ở nhà th́:
- Cau non khéo bổ cũng dầy
Trầu têm cánh phượng để thầy ăn
đêm.
Khi đi lấy chồng xa
th́:
- Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
- Đối với người
bạn trăm năm, công việc têm trầu cho chồng
xơi hằng ngày đă được xem là một
bổn phận không thể thiếu của người
đàn bà. Những ai biếng nhác têm trầu để
đến nỗi chồng thèm trầu phải đi
nhờ cô bạn hàng xóm têm hộ:
- Có trầu têm cho anh một miếng
Anh có vợ nhà làm biếng không têm.
th́ phải tự hiểu là
đă bị chồng chê, và hạnh phúc gia đ́nh có thể
từ đó bị đe dọa.
Dưới con mắt
người xưa, những người đàn bà sung
sướng là những người đàn bà chẳng
phải làm ǵ khác ngoài sự nhàn hạ, thảnh thơi
ngồi têm trầu để hầu chồng:
- Cô ấy mà lấy anh này
Chẳng phải đi cấy, đi cầy nữa đâu.
Ngồi trong cửa sổ têm trầu
Có hai thằng bé đứng hầu hai bên.
Nói chung, người đàn bà
yêu chồng, biết để ư săn đón, chiều
chuộng từng thói quen, từng ư thích của chồng
tất không bao giờ quên sửa soạn sẵn một
đĩa trầu thật ngon, chờ chồng sau mỗi
bữa cơm chiều:
- Tôi đà biết tính
chồng tôi
Cơm thôi th́ nước, nước thôi th́ trầu.
Và những giờ phút
hạnh phúc tuyệt vời nhất trong cuộc
đời tính ái lứa đôi của họ chẳng là
những giờ phút riêng tư, giữa đêm khuya thanh
vắng, đôi vợ chồng cùng chung hưởng
những miếng trầu ngon do chính tay người vợ
têm sẵn, dành riêng cho họ đó sao?
- Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng không ?
- Trầu vàng nhá với cau xanh
Duyên em sánh với t́nh anh tuyệt vời !
Hạnh phúc của
người xưa giản dị thế đó nhưng
cũng đằm thắm và mặn nồng biết bao!
Những khi người chồng có việc phải đi
xa, bất kể v́ công tác ǵ, th́ người vợ dù có
bận đến đâu cũng cố gắng lo chăm
sóc thật chu đáo những gói trầu hay những túi
trầu têm sẵn để tiễn chồng lên
đường.
Này đây là người
chồng sắp ra đi v́ nghĩa vụ quân dịch,
vợ chàng đă sửa soạn túi trầu ra sao cho chàng
đem theo ăn đường?
- Trời mưa nước dội dọc dừa
Sắp tiền anh trẩy bây giờ nàng ơi!
Quan trên có lệnh về đ̣i
Tôi vâng lệnh người, tôi phải bước ra.
Túi vóc mà cải bốn hoa
Hai tay hai túi mở ra, khép vào.
Cau non tiễn chũm hạt đào
Trầu têm cánh phượng rọc dao Lưu Cầu
Trầu em têm những vôi tàu (6)
Anh cất miếng trầu, anh bước chân đi.
Ngay người vợ quê
nghèo nhất, không tiền mua vóc, mua gấm, không có tài thêu
phượng, kết hoa may túi đựng trầu cho
chồng, nhưng trong khả năng của ḿnh, nàng
cũng cố chọn cho được mớ "trầu
lộc" là những lá trầu ra lứa đầu
vừa ngon, vừa quí, rồi cẩn thận bọc trong
chiếc lá dừa, cốt bảo vệ cho trầu
được tươi lâu để chồng mang theo:
- Lính này có vua có quan
Nào ai bắt lĩnh cho chàng phải đi
Nay trẩy Kim Th́, mai trẩy Kim Ngân.
Lấy nhau chửa được ái ân
Chưa được kim chỉ Tấn Tần như
xưa.
Trầu lộc em phong lá dừa
Chàng trẩy mười sáu, em đưa hôm rằm.
C̣n đây là một chinh nhân
vào hàng vơ tướng th́ người vợ chăm chút gói
trầu như thế nào khi tiễn chồng cất
bước hành quân?
- Trèo lên trái núi mà coi
Coi ông quản tượng cưỡi voi, đánh cồng.
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiến cho chồng trảy quân.
Lại nữa, nếu
người chồng là một anh đồ sắp lên
đường ứng thí, người vợ muốn
lấy ḷng chồng sẽ o bế túi trầu tiễn hành
ra sao?
- Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh quế cho chồng đi thi.
Mai sau chàng đỗ vinh qui
Vơng anh đi trước, em th́ vơng sau.
Tàn quạt, hương án theo hầu
Rước vinh qui về nhà bái tổ
Ngả trâu ḅ làm lễ tế vua.
Họ hàng ăn uống say sưa
Hàng tổng, hàng xă mừng cho ông nghè.
Nếu chúng ta để ư
tất sẽ thấy ngay là ở những trường
hợp hai vợ chồng sắp phải chia xa,
người vợ nào cũng cố đem hết tài khéo
léo nữ công nữ hạnh của ḿnh để sửa
soạn cho chồng những miếng trầu đẹp
nhất, đặc biệt nhất. Thôi th́ trầu têm cánh
phượng, thôi th́ trầu cánh kiến, trầu cánh
quế, đủ cả. V́ sao vậy? V́ nàng nào cũng
hiểu rằng:
- Miếng trầu lúc này có giá
trị của một tặng phẩm, biểu
tượng cho sự may mắn. Nàng muốn chúc cho
người chồng mọi sự hanh thông, mau mắn thành
công, đắc ư trở về.
- Miếng trầu lúc này vô
h́nh trung gắn liền với h́nh ảnh của nàng. Trên
bước hành tŕnh vất vả của chồng, khi
giở trầu ra ăn, nh́n thấy miếng trầu xinh
đẹp, ăn vào thấy lại hương vị
thơm ngon nồng ấm quen thuộc, chồng nàng sẽ
nhớ ngay tới nàng và cảm thấy được an
ủi, tưởng như nàng vẫn luôn ở bên cạnh
để săn sóc cho chàng.
- Miếng trầu lúc này là
những gợi nhớ bao nhiêu kỷ niệm yêu
đương, gắn bó giữa hai vợ chồng. Khi xa
nhau người ta mới dễ, mới thích hồi
tưởng lại những kỷ niệm đẹp xưa,
t́nh yêu v́ thế có cơ hội được hâm nóng và
bồi dưỡng thêm.
Như thế miếng
trầu lúc này đă gói ghém, đă chuyên chở bao nhiêu t́nh ư
của nàng đối với chồng. Và túi trầu
được nàng trân trọng và ây yếm trao tặng cho
chàng trong giây phút chia ly ấy sẽ nói dùm nàng tất
cả.
Vâng tất cả đó
sẽ giúp chồng nàng thêm nghị lực, thêm hăng hái
hoàn thành nghĩa vụ một cách tốt đẹp,
để sớm được trở về xum họp
với nàng, người vợ rất mực yêu
thương ở quê nhà đang ngày ngày tha thiết mong ngóng
chàng về.
8. Trầu Cau Qua Những Câu Ca Dao Ví Von
C̣n một điều lư thú
cuối cùng chúng tôi muốn nêu ra ở đây, là khi t́m tài
liệu cho bài thuyết tŕnh "Trầu cau trong đời
sống văn hóa dân tộc", chúng tôi đă nhặt ra
được rất nhiều những câu ca dao ví von
thật hay, có liên quan tới trầu cau.
Điều này chứng
tỏ người b́nh dân ta xưa rất ưa ví von. Và
trầu cau đă thực sự gắn bó thiết thân vào
đời sống tâm tư của họ, đến
độ mỗi khi họ nh́n một người nào,
nghĩ đến một chuyện ǵ, họ thường
có thói quen liên tưởng, so sánh để cảm nhận
về người đó, chuyện đó qua những h́nh
ảnh, hương vị, mầu sắc của trầu
cau, hay những vật dụng liên quan tới trầu cau.
Sự ví von so sánh này rất tài t́nh khiến cho những
vấn đề dù tế nhị đến đâu cũng
trở thành rơ ràng trong sáng, đôi khi c̣n dí dỏm và sâu
sắc nữa.
Như nói về nhan sắc
của người thiếu nữ, khi vừa chớm
tuổi dậy th́, đôi nhũ hoa mới nhú lên trông có khác
nào "cau buồng c̣n non"?
- Trên đầu em đội
khăn vuông
Nh́n xuống dưới ngục, cau buồng c̣n non.
Lại đến khi các nàng
vào độ đào tơ mơn mởn, xinh tươi,
hấp dẫn, th́ quả là đúng thời "cau non
vừa độ hái":
- Vào vườn hái quả cau
non
Anh thấy em gịn muốn kết nhân duyên.
Hai má có hai đồng tiền
Càng nom càng đẹp, càng nh́n càng ưa.
Cô gái nào có vẻ mặt
bầu bĩnh dễ thương th́ lá trầu nơn vàng, h́nh
trái tim tṛn trịa, duyên dáng kia hẳn sẽ là một h́nh
ảnh diễn tả thi vị nhất:
- Trầu vàng nhỏ lá, rau
giấp cá nhai gịn
Khéo khen phụ mẫu sinh em mặt tṛn dễ thương.
Vẻ đẹp của phái
nữ thường chia làm hai loại, có vẻ đẹp
ngoan hiền:
- Trầu lên nửa nọc
trầu vàng
Đội ơn phụ mẫu sinh nàng dễ thương.
Có vẻ đẹp sắc
sảo:
- Cổ tay em trắng như
ngà
Con mắt em biếc như là dao cau.
Đến khi người
phụ nữ lấy chồng, đă có cả bầy con,
tuổi đời đă chín, nhưng nếu nàng biết
khéo léo điểm trang th́ ai dám bảo là không đẹp?
- Cau già, dao sắc lại non
Nạ ḍng trang điểm lại gịn hơn xưa.
Những câu ca dao ví von về
hạnh phúc t́nh yêu và hôn nhân cũng thật là dí dỏm.
Như trường hợp trai gái vừa nh́n thấy
mặt nhau đă ưng liền, hợp liền, khác nào
"con dao vàng rọc lá trầu vàng". Người ta
bảo đó là "diện cảm thường t́nh"
hay "phải ḷng mặt" rồi. Trường
hợp này th́ đố tránh khỏi cảnh mắt đi,
mày lại:
- Con dao vàng rọc lá trầu
vàng
Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa.
Trong thời gian yêu
đương, người con trai thường thực
tế, luôn luôn ao ước được gần gụi
người thương:
- Ước ǵ anh hóa ra cơi
Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng.
Trong khi đó người thiếu
nữ lại ưa mơ mộng, hay tơ tưởng
tới những chuyện hạnh phúc, t́nh nghĩa c̣n xa
vời:
- Trầu xanh, cau trắng,
chay hồng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.
Lại nói đến
chuyện hẩm hiu, nếu chẳng may người
thiếu nữ đă đến tuổi trầm cài,
lược giắt, má phấn môi son mà vẫn chưa có
đối tượng thương yêu th́ tránh sao khỏi
tủi buồn cho số phận:
- Cau non, trầu lộc
mỉa mai
Da trắng, tóc dài đẹp với ai đây ?
Đêm đêm nàng nh́n chăn, nh́n
chiếu mà than thầm cho cảnh ngộ cô đơn bóng
chiếc của ḿnh:
- Có trầu, có vỏ, không vôi
Có chăn, có chiếu, không người nằm chung.
Nói chi đến những nàng
đă từng được yêu, nay v́ gặp cảnh
trắc trở không lấy được người
thương mới càng muộn phiền đến đâu,
đến nỗi chẳng c̣n thiết làm ăn ǵ:
- Yêu nhau chẳng lấy
được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.
Lại những kẻ bị
phụ t́nh nghĩ sao mà cay đắng, "Khi xưa ta
vẫn ăn trầu một cơi", hạnh phúc chung
đôi là thế mà giờ đây phải xa ĺa nhau. V́ sao? V́
sao?
- Bây giờ anh bắt gặp
nàng
Hỏi sao lá ngọc, cành vàng xa nhau ?
Xa nhau, ta mới xa nhau,
Khi xưa ta vẫn ăn trầu một cơi.
Những kẻ thất t́nh
đă vậy, những người đàn bà lấy
chồng, gặp phải chồng hư hèn không xứng
đôi vừa lứa, kém bè kém bạn cũng buồn sao là
buồn, đến hao ṃn cả thể xác:
- Hai tay sách nước tưới trầu
Trầu bao nhiêu lá, dạ sầu bấy nhiêu.
- Trầu vàng ăn với cau sâu
Lấy chồng kém bạn những rầu mà hư.
Nhiều người đàn
bà khác lại không chịu nổi nỗi cay đắng
của cảnh gia đ́nh nay hợp mai tan, t́nh duyên
trỏng trảnh, chẳng có ǵ bền vững; thôi th́
đành một lần dứt đi cho xong, nuối tiếc
làm ǵ, kéo dài chỉ thêm mua khổ vào ḿnh:
- Trầu nào cay bằng
trầu xà-lẹt
Thịt nào khét bằng thịt kên kên.
Đôi ta gá nghĩa không bền
Dứt đi cho rảnh, xuống lên làm ǵ ?
Ngoài ra ca dao cũng c̣n
mượn nhiều h́nh ảnh cây trầu, cây cau
để ví von về nhiều vấn đề tế
nhị khác nữa. Như khi nói đến thời gian mà
người ta nhắc tới thành ngữ "nhai dập
bă trầu" th́ phải hiểu họ muốn nói
đến một thời gian rất ngắn, chừng trên
dưới một hai phút đồng hồ thôi. Trái
lại, khi nói đến một thời gian dài, ca dao có khá
nhiều câu ví von để chúng ta có thể dựa vào
đó mà ước tính:
T.D.1 - Thương th́ chờ
đợi năm sau
Chờ cau lớn trái, lột tầu sẽ hay.
T.D.2 - Thương nhau hẹn
lại năm sau
Cho trầu ra lộc, cho cau trổ buồng.
Tất nhiên chúng ta hiểu
ngay, thời gian chờ đợi ở thí dụ 2
ngắn hơn ở thí dụ 1.
Lại như câu:
- Thương nhau cau hết nửa buồng
Trầu hết nửa chợ chưa tường mặt
nhau.
là muốn nói, chàng trai than
phiền về thời gian "ở rể" đă lâu
mà chưa được gặp mặt vợ.
Lại như khi nói về:
Cảnh nhà nghèo th́:
- Nhà anh lợp những mo nang
Nói láo với nàng nhà ngói ba gian.
Cảnh t́nh nghèo th́:
- Đôi ta như thể cây cau
Anh bẹ, em bẹ, nương nhau ở đời
Anh đừng thấy khó
đổi dời
Tiền tài phấn thổ, nhân ngăi đời thiên kim.
Mẹ già cả lo th́:
- Mẹ già lo bẩy lo ba
Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên.
Số phận không may th́:
- Chẳng qua ái số muộn màng
Buôn trầu gặp nắng, buôn đàng gặp mưa.
Những kẻ ngu đần
th́:
- Mặt nạc, đóm dầy
Mo nang trôi xấp biết ngày nào khôn.
Trai già chưa vợ th́:
- Cau không buồng gọi là cau đực
Trai không vợ cực lắm ai ơi.
Nhưng trong tất cả các
câu ca dao của ta thuộc loại ví von, có liên quan tới
trầu cau th́ bài "Thằng Bờm có cái quạt mo"
phải kể là hóm hỉnh và sâu sắc nhất.
Thật thế, cái quạt mo
của thằng Bờm chẳng có giá trị là bao, ấy
vậy mà lại được phú ông gạ gẫm xin
đánh đổi với bao nhiêu tài sản quí giá, có
thứ cả đời Bờm cũng không dám mơ
ước tới:
- Thằng Bờm có quạt
mo
Phú ông xin đổi ba ḅ chín trâu
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu;
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè;
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim;
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi;
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười !
Phú ông muốn đề
nghị ǵ th́ đề nghị, Bờm vẫn lắc
đầu quầy quậy, chỉ đến khi phú ông
đưa nắm xôi ra đổi, nó mới khoái chí
cười chấp thuận.
Tại sao thế? Bờm có
ngu không? Không đâu, v́ nó rất hiểu, chỉ có nắm
xôi mới ngang bằng giá trị cái quạt mo của nó,
đổi như thế mới là hợp lư; lại
nữa , v́ nắm xôi là vật cụ thể trước
mắt, mới có thể "tiền trao, cháo múc". C̣n
những lời đề nghị về những thứ
của cải cao sang kia, ở măi đâu đâu, chắc
chắn chỉ là những lời hứa hẹn hăo
huyền, không bao giờ được thực hiện.
Bài ca dao Thằng Bờm không
chỉ mang tính cách bông đùa dí dỏm quanh cuộc trả
giá cái quạt mo giữa phú ông và thằng Bờm , mà c̣n hàm
chứa một ư nghĩa sâu sắc.
Ở đây sự ví von
đă đạt mức tŕnh độ nghệ thuật
cao, thằng Bờm và phú ông là những nhân vật biểu tượng:
- Thằng Bờm
tượng trưng cho những người b́nh dân Việt
Nam, xưa nay vốn tính hiền lành, chân thật, nhưng
có đầu óc tỉnh táo, thực tế, chỉ yêu quí
những ǵ thiết thân với đời sống hằng
ngày của ḿnh, như cái quạt mo, như nắm xôi.
- Phú ông tượng trưng
cho những kẻ ăn trên ngồi trốc trong xă hội,
v́ ḷng tham không đáy, họ sẵn sàng dùng thủ
đoạn phỉnh phờ để lường gạt
dân đen hầu cướp đoạt của cải,
ngay đến những thứ nhỏ nhoi nhất - như
cái quạt mo - chẳng đáng giá ǵ đối với
họ, họ cũng không từ.
Như thế, bài ca dao
Thằng Bờm đă cho chúng ta một bài học khôn ngoan:
Hăy bắt chước Bờm, phải luôn luôn tỉnh
thức để không bao giờ bị những lời
đường mật của kẻ quyền thế
(tiền của luôn luôn đi đôi với quyền
thế) phỉnh gạt ḥng cướp không của cải
của ta. Ngày nay chúng ta c̣n có chiều hướng bàn xa
hơn khi nói đến quyền sống tự do, dân chủ
căn bản của mỗi con người.
Tóm lại, cái lối ưa ví
von để diễn đạt t́nh cảm, tư
tưởng này đă tạo nên một phong cách riêng cho ngôn
ngữ nói và cho văn chương b́nh dân truyền khẩu
Việt Nam. Đây cũng là một sắc thái độc
đáo trong đời sống văn hóa dân tộc.
Kết luận
Sau khi đă tŕnh bầy
một số vấn đề có liên quan tới trầu
cau trong đời sống văn hóa dân tộc, chúng tôi xin
đi đến kết luận: Kể tất cả các
dân tộc có tục ăn trầu ở miền Á Đông này, có
lẽ chưa một dân tộc nào lại quí và khoác cho
miếng trầu, quả cau nhiều ư nghĩa như dân
tộc Việt Nam ḿnh. Trong văn chương Việt Nam
th́ chưa có một loại cây cỏ nào lại
được ca ngợi và nhắc nhở đến
nhiều như cây trầu, cây cau.
Trong các loại thảo
mộc được trồng trọt ở xứ ta th́
cũng không có một loại thảo mộc nào lại
được người dân khai thác kỹ lưỡng
như cây trầu, cây cau. Từ giá trị vật chất
nhỏ nhoi "ba đồng một mớ trầu cay"
đến giá trị cao quí khi nó trở nên một tặng
phẩm hay một lễ vật. Từ đời sống
tinh thần cá nhân (t́nh cảm riêng tư) đến
đời sống gia đ́nh (t́nh cảm anh em khắng
khít, t́nh vợ chồng đằm thắm, thủy chung
trong sự tích Trầu Cau), đến tinh thần xă
hội (trầu cau biểu tượng cho một triết
lư nhân sinh đặc thù Việt Nam, lấy t́nh nghĩa mà
khu xử ở đời).
Ngày nay xă hội Việt Nam
đă quá đổi thay, một phần v́ hoàn cảnh
chiến tranh kéo dài hàng mấy thập niên, một phần
do ảnh hưởng văn hóa Âu Mỹ đưa
tới... Những thế hệ Việt Nam sinh từ 1930
trở đi đă bắt đầu bỏ tục ăn
trầu, người ta không c̣n coi miếng trầu là
phương tiện giao tế hằng ngày nữa, giới
trẻ cũng không c̣n mượn miếng trầu
để tỏ t́nh, và nhiều gia đ́nh cũng đă
bỏ luôn tục lệ chia trầu cau trong những
kịp lễ hỏi...
Rồi đây h́nh ảnh
thơ mộng của những giàn trầu, những hàng cau
tất sẽ không c̣n phất phới trên khắp các
nẻo đường quê hương đất
nước nữa. Nhưng văn chương b́nh dân
truyền khẩu c̣n đó, lại được đem
giảng dạy tại học đường, th́ tôi tin chắc
rằng nó vẫn đóng trọn được vai tṛ giáo
dục và bồi dưỡng tâm hồn người
Việt Nam, để muôn đời con cháu chúng ta vẫn
biết sống theo quan niệm triết lư t́nh nghĩa
trầu cau, một truyền thống tốt đẹp
của văn hóa dân tộc.
Chúng ta hiện đang
sống ở hải ngoại th́ việc bảo tồn và
phát huy những giá trị tốt đẹp của văn
hóa dân tộc, những tinh hoa của ṇi giống tất
nhiên đă là hoài băo chung của phần đông bà con chúng ta.
Sự bảo tồn này
chắc chắn sẽ không làm trở ngại bước
tiến của giới trẻ trên đường hội
nhập vào xă hội mới, mà trái lại c̣n tạo cho
họ một tiềm năng, một cơ sở dễ
nhận biết, so sánh, phê b́nh và lănh hội những giá
trị mới. Cuộc sống của họ v́ thế càng
thêm ư nghĩa và phong phú.
Chú Thích
(1) Tài liệu Trần
Quốc Vượng, Trong Cơi, mục Triết lư trầu
cau, trang 139
(2) Có thể xem thêm bài "Vài
nét về tục ăn trầu trên thế giới"
của Thúc Nguyên, Paris, sắp in, và xem thêm cuốn "Le
Monde Chinois" của Jacque Gernet, trang 25
(3) Dân Việt ta xưa có
truyền thống thờ các vị thiên thần (Huyền
Thiên Trấn Vơ, Phù Đổng Thiên Vương...), nhiên thần
(thần đá, thần cây, thần sông nước), nhân
thần (gồm các vị anh hùng liệt sĩ có công
với dân với nước và những người có
đức hạnh trung liệt, tiết nghĩa...). Họ
tin tưởng rằng những vị thần này có
khả năng bảo vệ và phù hộ cho những người
tại thế. Xem thêm cuốn "Thần, Người và
Đất Việt" của Tạ Chí Đại Trường,
Văn Nghệ xb, Cali 1989.
(4) Trong sách Việt Nam Sử
Lược của Trần Trọng Kim có ghi 24 điều
huấn dụ của vua Lê Thánh Tông (1460-1497), sức cho dân
xă để giảng dạy con em giữ lấy thói
tốt về đạo nghĩa vợ chồng, anh em
v.v...
(5) Sách Ịại Việt
Sử Lược do Trần Hy Tộ hiệu đính có
chép: "Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682
trước TL) ở bộ Gia Ninh có người lạ,
dùng ảo thuật áp phục được các bộ
lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô
ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang...
Truyền được18 đời đều gọi là
Hùng Vương".
(6) Cau đậu: Cau khô nguyên
hạt, thứ nhỏ trái, có tiếng là nhai dẻo, ngon.
(7) Câu này đáng lẽ
phải nói là:
- Trầu này têm những vôi "hầu"
- Trầu em têm những vôi "hầu"
v́ theo Thúc Nguyên, vôi ăn trầu do việc nung đá vôi hay
vỏ ṣ, vỏ hầu mà có. Vôi ṣ, vôi hầu ngon và hiếm
nên quư, chứ vôi Tàu có khác ǵ vôi ta, có ǵ là quư.
(8) Không riêng ǵ dân tộc ta
mới có tục lệ dùng trầu cau trong các nghi lễ
cưới hỏi. Trong cuốn Dictionnaire des Symboles Chinois
(trang 236) Wolfram Eberhard cho biết, một số dân tộc
thiểu số ở miền Nam Trung Hoa cũng có tục
dùng trầu cau làm lễ cưới, và họ cũng dùng
những cơi bằng bạc hay bằng thiếc
để đựng trầu.
Tài Liệu
Tham Khảo
. Bảo Định Giang -
Nguyễn Tấn Phát - Trần Văn Vĩnh - Bùi Mạnh
Nhị, Ca dao dân ca Nam Bộ. Nhà xb TP.HCM, 1984.
. Đỗ Th́ Kênh G, Ịám
cưới, Thế Kỷ 21, số 88, tháng 8-96.
. Đỗ Tất Lợi,
Những cây thuốc và vị thuốc VN, nhà xb KHKT, Hà
Nội 1983.
. Diên Khánh, Hôn Lễ, Làng
Văn số 142, Canada, 1996.
. Jacques Gernet, Le monde Chinois,
A.Colin, 2è éd. 1987.
. Khiếu Ịức Long,
Ịặc tính gốc nước của nền văn hóa
VN, Vietnamoligica, số 1, Canada 1995.
. Lê Hữu Mục, Lĩnh Nam
Chích Quái, nxb Tân Việt, Hoa Kỳ, 1982.
. Nguyễn Trúc Phương,
Văn học b́nh dân, nxb Sống Mới, Sàig̣n 1964.
. Nguyễn Hướng
(Dallas), Nam Phổ... trèo cau, Làng Văn số 135, Canada, 1995.
. Ôn Như Nguyễn Văn
Ngọc, Tục ngữ phong dao, nxb Mặc Lâm, Sàig̣n 1967.
. Phan Kế Bính, VN Phong
tục, nxb Bút Việt, Sàig̣n, tháng 2, 1975.
. Trần Trọng Kim, VN
sử lược, IQ, Bộ Giáo Dục SG xb.
. Thái Văn Kiểm, Lá
trầu định mệnh, Nguyệt San Thế Giới,
Austin, Texas, tháng 8, 1996.
12/2007
Nguồn: http://www.vantuyen.net