Phần
III – Đất nước và con người
CÔNG
VIỆC NHÀ NÔNG QUANH NĂM
Vác cuốc ra thăm ruộng
(ảnh Quốc Văn Giáo Khoa Thư)
Nước Việt ta từ xưa
lấy nghề nông là chủ yếu. Trong nghề nông thì
trồng lúa là chánh, các loại nông phẩm hoa màu khác là
phụ. Dân mình xưa nay ăn cơm là chủ yếu, có
vùng thiếu lúa, dân phải ăn kèm khoai mì, khoai lang,
bắp. Nên ông bà ta có câu:
Mạnh vì gạo,
bạo vì tiền.
Hột gạo, hột cơm được cha
mẹ dạy ta quí trọng kêu bằng hạt ngọc; vua
chúa luôn có chính sách khuyến nông, khuyên dạy dân không nên
bỏ ruộng hoang :
Ai ai đừng bỏ
ruộng hoang,
Bao nhiêu tất đất, tất vàng
bấy nhiêu.
Suốt lịch sử dân mình gắn liền với
nông nghiệp, công việc đồng án không ai dạy, trong
gia đình cha mẹ tập tành con cháu ra đồng làm
lụng quanh năm, tập tành theo lối “cha truyền con nối”.
Chúng ta hãy xem Quốc Văn Giáo Khoa Thư tả công việc nhà nông quanh năm:
Tháng giêng là tháng ăn
chơi
Tháng hai trồng đậu, trồng
khoai, trồng ca.ø
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng
năm.
Sáng ngày, đem lúa ra ngâm(1)
Bao giờ mọc mầm, ta sẽ
vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta(2)
Đến khi lên mạ, thì ta nhổ
về.
Sắp tiền mượn kẻ
cấy thuê,
Cấy xong thì mới trở về
nghỉ ngơi...
Công việc nhà nông quanh năm trích trong Quốc Văn
Giáo Khoa Thư lớp Sơ Đẳng (Lecture Cours
Elémentaire). Công việc nhà nông được mô tả theo
sự tuần hoàn của ngày tháng trong một năm, thích ứng
với sự biến chuyển của thời tiết.
Nước ta ở vùng nhiệt đới gió mùa, mưa
nhiều, độ ẩm cao. Miền Bắc có 4 mùa, Trung
và Nam chỉ có 2 mùa mưa và nắng. Qua bài ta biết
đây là công việc nhà nông Miền Bắc. Tháng giêng ( tháng
âm lịch) là tháng ăn Tết vui chơi, lễ chùa, dân
mình ai cũng không muốn đi làm.
Miền Bắc, trồng nhiều hoa màu phụ
để tự túc về lương thực gia đình.
Khi khoai là thức ăn phụ trộn với cơm
gọi là ăn độn, dân Miền Nam sau năm 75
mới biết phương cách ăn độn nầy.
Ở Miền Nam nông dân ngoài trồng lúa, còn trồng
các loại khác nhưng chủ yếu là để bán,
họ biết chuyên canh, do đất rộng người
thưa. Nên trong Nam có Bến Tre xứ dừa, Cổ Cò
xứ dưa hấu. Trung Lương xứ mận, Hóc Môn
rau cải, Bà Điểm xứ trầu cau v… v... Các ông Phạm Quỳnh, Nguyễn
Bính, Nguyễn Hiến Lê vô Nam đã viết nhiều về
đời sống, ruộng vườn miền Nam nói lên
xứ Nam Kỳ đã có chuyên canh từ lâu.
Con trâu trong câu ”Tháng tư đi tậu trâu bò” cũng nêu lên nét đặc thù trong đời
sống nông thôn ta xưa. Trâu là phương tiện chánh
của sản xuất, người chủ có trâu phải
đăng bộ ở làng xã, được cấp
sổ trâu cũng như sổ bộ ghe. Khi Tây vô chiếm
Nam Kỳ thì lập ra sở thú y chủ yếu bảo
vệ đàn trâu hầu khai thác các vùng đồn
điền miền Tây. Ngoài việc đăng bộ ghi
sổ, trâu còn được đóng dấu vào mông (dấu
bằng đồng, nướng đỏ, đóng vô mông
trâu) đề phòng trâu bị trộm. Luật ta xưa
phạt người ăn trộm trâu rất nặng, có
lúc phải lưu đày biệt xứ.
Việc cấy lúa cần nhiều nhơn công, trong Nam
thường thì người ta cấy vần công, chỉ
có các nhà điền chủ lớn mới mướn công
cấy. Người đứng ra lãnh bao cấy cho chủ
điền gọi là đầu nậu. Sáng sớm
đầu nậu thổi tù và tập hợp công cấy
rồi phân bổ đến ruộng. Chủ điền
thường bao ăn cho thợ cấy.
Công việc nhà nông, Quốc Văn Giáo Khoa Thư
tả tiếp như sau :
Cỏ lúa dọn đã
sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười,
cỏn độ một hai . . .
Ruộng cao đóng một gàu giai(3)
Ruộng thấp thì phải đóng hai
giàu sòng(4).
Chờ cho lúa có đòng đòng(5)
Bây giờ ta sẽ trả công cho
người
Bao giờ cho đến tháng
mười,
Ta đem liềm hái(6) ra ngoài ruộng ta
Gặt hái ta đem về nhà
Phơi khô, quạch sạch ấy là xong
công.
Sau khi cấy công việc nhà nông chuyển sang giai
đoạn hai, chăm sóc nước, cỏ, chờ lúa
trổ và thu hoạch.
Trong Nam có 2 loại ruộng lúa : một là loại
ruộng đồng, cây lúa chỉ sống nhờ
nước mưa; loại thứ hai là ruộng rẫy
(đa số) chủ yếu lấy nước sông;
loại 2 này thấy ở Hậu Giang, còn miệt Tiền
Giang xen kẻ có đồng có rẫy.
Ruộng rẫy thường dùng hệ thống kinh,
mương dẫn thủy hoặc xã nước nên không
dùng gàu tát. Ruộng đồng gặp khi nắng hạn
phải dùng gàu để đưa nước vào
ruộng. Trong Nam ruộng phẳng, không có triền, dốc
nên thường tát bằng gàu sòng. Ở quê gàu giai
thường dùng tát ao, tát đìa bắt cá vào mùa khô gần
Tết âm lịch, vì ao đìa rất sâu. Lúa chín
được thu hoạch bằng vòng hái (Bắc gọi là liềm hái), sau
khi gặt xong lúa được bó và chở về sân nhà
bằng ghe, cộ, gánh bằng đòn sóc như cây đòn
gánh nhưng hai đầu nhọn
để sóc (đâm) vào bó lúa. Có người gánh
mỗi đầu 1 bó, có người mạnh gánh 2 bó
mỗi đầu. Do vậy dân Nam Kỳ thường dùng
hình tượng cây đòn sóc để chỉ người
không có kiên định, đầu nào cũng theo nhẳm
thủ lợi ( Đòn sóc hai đầu). Lúa
được tách hột ra khỏi rạ bằng cách cho
trâu đạp, sau đó đem phơi khô, dùng quạt
(loại xa quạt lúa), quạt cho sạch, cũng có
nơi dùng gió để “dê”cho sạch.
Lúa hột được chứa trong bồ ở
nơi khô ráu, người làm ruộng nhiều, lúa
được dựa trong kho lớn đóng bằng ván
gọi là lẩm lúa. Tóm lại công việc nhà nông, chủ
yếu trồng lúa, suốt năm từ lúc gieo mạ
đến gặt lúa. Lúa sớm kết thúc vào tháng 10 ta, lúa
mùa vào tháng 11, tháng chạp.
Lúa nuôi sống dân, ai có nhiều lúa là nhà giàu. Xã hội
ta xếp hạng : Sĩ -Nông - Công- Thương. Nông dân
chỉ đứng sau Sĩ (giai cấp quan lại
người có học) mà thôi.
Xem ra mới thấy nông nghiệp là nghề chánh
của dân mình cho đến
thế kỷ 21 nầy. Đời sống nông dân một
nắng hai sương, vất vả nhưng nói chung
vẫn nhàn nhạ hơn xã hội công nghiệp ở
Mỹ này. Nên những ai ở độ tuổi lục
tuần không quên được câu : “Tháng giêng là tháng ăn
chơi” trong bài ca dao “Công việc nhà nông quanh năm” của Quốc Văn Giáo Khoa Thư, như tiếc
rẽ thuở nhân hạ ngày xưa
! ! !
(1) Trong Miền Nam
gọi là ngâm giống.
(2) Trong Nam gọi là gieo
mạ
(3) Loại gàu có cột
dây 2 bên có 2 người cầm tát
(4) Loại gàu có cáng, treo
bằng 3 cọc, do một người tát
(5) Bông lúa non chưa
trổ ra
(6) Vòng hái dùng gặt lúa
ngày xưa, bằng loại cây quau nhẹ, hình cùi chỏ,
một đầu làm cán cầm, đầu kia để
quở lúa, có tra lưỡi liềm để cắt.