Tây Du Ký Hồi 14 - Phiên âm

Nguyễn Văn Sâm

Tây Du Ký Hồi 14 - Phiên âm

Vượn theo đường chánh, sáu giặc mất tiêu


Mưa thiên hoa rưới rấp,
Trăng Bát Nhã sáng ngời.
Mừng thay chúa Thánh trị đời,
Toại bấy tôi hiền giúp nước.
Vâng mạng cả tây hành bái Phật,
Mỗ hiệu xưng Tam Tạng là danh.
Dầu hiểm nguy miễn đặng chân kinh,
Vòng sanh tử nài bao số hệ.

Lại nói:

Bị song lãnh thương hai đồ đệ,
Tống lộ trình nhờ một Bá Khâm.
Lưỡng giới sơn phi hệ cư lâm,
Dám phiền gã đưa ta một dặm.

Bá Khâm:

Thương sư phụ lòng tôi muốn rán,
Ngại đây là Thát Đát đề phong.
Dầu gặp loài mãnh thú độc trùng,
Thời nó cũng không lòng uy phục.

Tam Tạng:

Ngươi tự tỉnh ngươi rằng bất túc,
Ta có ngươi ta thiệt hữu dư.
Cùng nhau bạt thiệp sơn khê,
Mai sẽ đông tây các (2) biệt.
(Đại Thánh dưới núi Ngũ Hành, kêu lên)

Đại Thánh:

Năm kể đặng nửa ngàn sơn tuyết,
Còn chưa nhờ một hội móc mưa.
Rày mừng đã gặp đẳng sư,
Sơn hạ liên thanh đại khiếu.

Lại nói:

Ngã môn đồ đại khiếu, đại khiếu,
Nguyện sư phụ tiền lai, tiền lai.
(Tam Tạng, Bá Khâm hết hồn)

Tam Tạng:

Chốn sơn trình ốt gẫm không ai,
Bên tai nọ nghe dường kêu mỗ.
(Bá Khâm, cùng gia đồng nói)

Gia đồng:

Việc kia thiệt có, thiệt có,
Gẫm lại chẳng hay, chẳng hay.
Dưới non kia sâu thẳm khôn cùng,
Có một cái lão viên ở đó.

Bá Khâm:

Thiệt nó, thiệt nó.
Chẳng sai, chẳng sai.

Tam Tạng:

Lão viên ấy là ai?
Nguơi khá tua phân thử.

Bá Khâm:

Nghe lời trước đến giờ còn nhớ,
Tôi sanh sau há dễ biết nào.
Non Ngũ hành sanh thuở Hán trào,
Ngày Vương Mãng còn chưa táng bại.
Nay lại gọi rằng non lưỡng giái,
Dưới có cầm một cái thần hầu.
Dầu nắng mưa sương tuyết chi nao,
Nhẫn đói khát lạnh lùng không chuyển.
Hẳn nhà gã hà tu phân biện, (b)
Ta tới xem thử gã dường bao.
(Đại Thánh dưới núi kêu lớn)

Đại Thánh:

Xin sư phụ hãy vào, hãy vào,
Đặng môn đồ nói với, nói với.
(Tam Tạng đến coi)

Tam Tạng:

Càm hơi thủng, mũi kia rất xấu,
Mắt lửa thường, tròng tựa thếp vàng.
Trên đầu kia cây cỏ mê man,
Dưới miệng nọ rong rêu úa (?) loạn.

Bá Khâm:

Thấy hình dạng lòng bao thương cảm,
Giơ (?) miệng ra đây nhổ rêu cho.
Sao nhà ngươi chịu phận môn đồ,
Lời chi nữa mi tua khá nói.

Đại Thánh:

Nhà ngươi đừng khá hỏi,
Mời sư phụ lại đây.

Tam Tạng:

Thân hình đã đến đỗi này,
Cũng hỡi chọn người mà nói.
Hỏi việc chi ngươi hỏi,
Đó biết mỗ người nào?

Đại Thánh:

Phải Tôn sư thọ mạng Đường trào,
Sang Tây thổ cầu kinh Phật tổ?

Tam Tạng:

Vãng Tây thổ vốn là sự mỗ,
Ở sơn trung duyên cớ làm sao?

Đại Thánh:

Sư phụ đà hỏi đến âm hao,
Môn đồ dám tỏ bày cơ sự.

Bạch:

Ngũ bách niên tiền (3) náo thiên cung,
Tề Thiên Đại Thánh khỉ nhân đồng.
Bị tha Phật Tổ giam na xứ,
Tiền ngộ Quan Âm đại phát mông.
(Vậy Quan Âm có dặn rằng)

Tán:

Ngã lai Đông thổ tầm thủ kinh nhân, nễ hảo truy tuỳ, ngã giao cứu nễ. Lại dặn ta mần ri nữa ma: Nễ khá qui (N.Vi) y Phật pháp, bảo thủ kinh nhân trực vãng Tây phương, tất hữu hảo xứ. Vậy cho nên ta:

Bạch:

Trú dạ đề tâm đồ vọng nễ
Cứu ngô nhứt cứu nguyện tùy tùng.

Tam Tạng:

Văn ngôn lôi động hoài trung.
Thính thuyết xuân hồi diện thượng.
Ta rất muốn cứu người hoạn nạn,
Rìu búa không biết cứu làm sao?

Đại Thánh:

Rìu búa đâu phá núi cho vào,
Thầy đã cứu khá nghe lời mỗ.
Có sáu chữ chân ngôn Phật Tổ,
Dán đầu non để ếm trấn min.
Thầy gắng lên phá sáu chữ vàng,
Thời cứu đặng thân ta mạng bạc.

Tam Tạng:

Mấy lời gã nghe qua cũng thiệt,
Ta đều lên xem thử dường bao?

Lại nói:

Lên Kim quang đã mấy trượng cao,
Xuống bạch thạch biết bao nhiêu (b) lớp.
Rực rỡ trên niêm một thíp,
Đọc qua mới biết chữ chi.

Đọc:

Úm ma ni bát di hồng.

Lại nói:

Tuy sáu chữ nghĩa mầu rất rộng,
Dầu muôn quân thế cũng khó dời.
Phải cúi đầu khấn nguyện vài lời,
Họa thấu đến thần công cứu trợ.

Lại nói:

Thần bản thị Huyền Trang danh tự,
Phụng Đường vương bái Phật cầu kinh.
Phải có duyên sư đệ đồng hành,
Gỡ sáu chữ cứu tha hầu tử.
Bằng nhà gã một loài hung dữ,
Sáu chữ kia gỡ ắt chẳng xong.
Nguyện quỉ thần chứng giám công lòng,
Dâng bốn lạy dám xin khả hộ.
(Khấn xong, tay gỡ sáu chữ)

Lại nói:

Sáu chữ nọ gỡ vừa khỏi đó,
Trận gió kia thoắt đã tới đây.
Điềm lành dữ khôn hay,
Dường hồ nghi tấc dạ.
(Thần canh giữ [Đại Thánh] nói giữa trời)

Giám áp thần:

Gã Đường tăng chớ sợ,
Mỗ giám áp Tề Thiên.
Vả nhà ngươi sư đệ hữu duyên,
Còn Đại Thánh giam kỳ mãn hạn.
Châm ngôn nọ ẻ tương hồi phản,
Đáo Tây phương thân nộp Như Lai.

4. Tam Tạng, Bá Thừa:

Kỳ tai thậm kỳ tai,
Vọng bái đồng vọng bái.

Tam Tạng:

Chốn thạch hạp ta tua trở lại,
Kẻo Tề Thiên gã luống đợi trông.

Lại nói:

Sáu chữ kia ta gỡ đã xong.
(Đại Thánh mừng quýnh)

Đại Thánh:

Một thân nọ bây giờ khỏi trói,
Vậy thời gã Quan Âm chẳng dối.
Vậy thời lời Phật ấy hữu linh.

Lại nói:

Sư phụ cùng huynh trưởng viễn hành,
Mỗ xuất hạp ắt là kinh hãi.
(Tam Tạng, Bá Khâm chạy xa 7, 8 dặm. Đại Thánh biểu chạy xa nữa).

Lại nói:

Đó chưa mấy, hỡi xin chạy tới,
Tiếng núi chìm thế ắt vang lừng.
(Đại Thánh trong núi hét to, nhảy ra).

Tam Tạng, Bá Khâm:

Bên tai dường địa liệt thiên băng,
Trong lòng đã hồn kinh phách lạc.
Hèn chi Phật Như Lai, Bồ Tát,
Dằn nhà ngươi bằng núi ngũ hành.
(Đại Thánh chạy tới trước Tam Tạng, quì xuống).

Đại Thánh:

Xin Tôn sư chớ khá giựt mình,
Có đệ tử nay đà hiệp mặt.
Trước sư phụ xin phân lời thiệt,
Đức Đại hoàng tôi chửa cúi đầu.
Nay (b) ngửa nhờ chửng cứu ơn sâu,
Xin bái tạ kính dâng bốn lạy.
Còn huynh trưởng tuy rằng hỡi lạ,
Có lòng đưa sư phụ tới đây.
Cũng xin tỏ chút lòng này,
Cúi tạ trưởng huynh lấy lễ.

Bá Khâm:

Phận thôn dã còn chưa địch thể,
Huống lễ người há dám chịu nào.

Đại Thánh:

Cùng nhau đà chút tỏ âm hao,
Thâu hành l‎ý tảo đăng sơn lộ.
(Lại dắt ngựa. Ngựa sợ run)

Lại nói:

Sao ngựa nọ rất là kinh cụ,

Tam Tạng:

Để mặc ta, ngươi vốn chưa quen,
Ngươi tua tỏ nỗi tánh danh,
Đặng mỗ phòng khi kêu hỏi.

Đại Thánh:

Tôn là họ, Ngộ Không ấy hiệu,
Tên họ tôi thầy đặt đã lâu.

Tam Tạng:

Pháp danh kia thầy đặt đã mầu,
Ta đặt lại hiệu Tôn Hành Giả.
Hai chữ nọ tuy rằng có lạ,
Muốn Phật Tiên đồng hổn nhứt gia.

Đại Thánh:

Trên đà có ý lo ba,
Dưới cũng quyết ưng lòng một.

Bá Khâm:

Xưa sư phụ hỡi còn (5) huỳnh độc,
Vậy nên tôi viễn tống lộ trình.
Nay có người thiên lý đồng hành,
Giã sư phụ tôi lui sơn trại.

Tam Tạng:

Trải mấy dặm nhờ nuôi cứu trợ,
Nay phút đà thiên các nhứt phương.
Biết lấy chi tỏ đặng can trường,
Xin đa tạ nhà nuôi lấy lễ.

Tôn Hành Giả:

Xin Tôn sư thượng mã,
Đặng tiến bộ sơn trang.
Hành lý này mặc mỗ đài đang,
Đặng qua khỏi Giới sơn nguy hiểm.

Tam Tạng, hát khách:

Thiệp bỉ thôi ngôi, ngã hướng tiền,
Hữu duyên sư đệ lạc vô biên.

Hành Giả, hát khách:

Bán thiên thân thế mai nham huyệt,
Nhứt đán ngang nhiên kiến cửu thiên.
(Bỗng có cọp dữ, gầm rống nhảy ra. Tam Tạng sợ)

Tam Tạng:

Hùm ở đâu nhảy tới sơn biên,
Sư [phụ] khiến ngồi đà không [đặng] ngựa.
(Hành Giả mừng lắm, cười)

Hành Giả:

Xin Tôn sư đừng sợ,
Nó đem áo cho tôi.
(Tay lấy thiết bảng giắt bên tai, nói)

Lại nói:

Ngỡ báu đà mai một sơn ôi,
May lại thấy ngày rày đại dụng.
(Cọp dữ nằm bất động bên đường. Đại Thánh đập chết) (b)
Mới một chùy đánh xuống,
Sao đã nát như tương?
(Tam Tạng ngã xuống ngựa)

Tam Tạng:

Thậm kinh mang, thậm kinh mang,
Chân khủng cụ, chân khủng cụ.
Đổi Thái bảo gặp loài mãnh thú,
Đánh nửa ngày thế tợ long tranh.
Chùy nhà ngươi dùng sắt hay đồng,
Đánh một cái nó đà mạng một.

Tán:

Hèn chi có câu rằng: Cường trung cánh hữu cường trung thủ đà phải.

Hành Giả:

Xin sư phụ hãy còn tạm nghỉ,
Để cho tôi cắt cái đoản y.
(Đại Thánh hô biến biến, nhổ một sợi lông, biến thành dao nhọn, rạch bụng hổ, lấy bộ da, cắt làm hai mảnh, quấn quanh bụng, lấy dây sắn buộc lại, thu cây gậy thành cây kim như cũ, giắt vào tai).

Lại nói:

Xin Tôn sư thượng mã bôn trì,
Gặp kim chỉ thời ta may áo.

Tam Tạng:

Tôn Ngộ Không ta hỏi,
Lời chớ khá mạn khi.
Trước đánh hùm có thấy thiết chùy,
Sau thượng lộ cớ sao lại mất?

Hành Giả:

Thiết bảng nọ thần cơ nhiệm nhặt,
Dẫu Tôn sư há dễ biết nào.
(Tôi phân cho Tôn sư nghe)

Bạch:

Thử bảng tùng lai tại hải đông,
Thủ tha do ngã quảng thần thông.

Tán:

Như tên thiết bảng ấy (6), nhứt danh là Trấn hải thần trân thiết, nhứt danh là Như Ý Kim Cô bổng.

Bạch:

Đương niên nhiễu loạn thiên cung khuyết,
Biến hóa tùng ngô trắc mạc cùng.

Tán:

Biến đại giả đại, biến tiểu giả tiểu, đại tắc như khâu như lăng, tiểu tắc như kim như tuyến.

Tam Tạng:

Pháp bổng nọ xem đà rất nhiệm,
Ta lại hỏi,
Gã thấy hùm sao nó cũng kinh?

Hành Giả:

Mấy lời thân há dễ mạn tình,
Tôi có phép hàng long phục hổ.
Kể khôn cùng tài mỗ,
Loài mãnh hổ màng bao!

Tam Tạng:

Thiệt ngửa nhờ Phật Tổ nấy trao,
Đường sá cậy nhà ngươi bảo hộ.

Lại nói:

Bầy én nọ bay về lũy cũ,
Vừng ô kia xế lại non xưa.
Tìm chốn nào thầy tớ nghỉ ngơi,
Ngày mai sẽ trông chừng tiến bộ.

Sơn lão:

Nhà ở miền rừng rú,
Phải giữ đảng sài lang.
Cửa ngõ đã buộc ràng,
Dầu ai kêu không mở.

Tam Tạng:

Rừng nọ ta xem nghiêm nhặt,
Ắt là trong có (b) gia nhân.
Hành Giả khá mau chân,
Kiếm nơi mà tạm nghỉ.

Hành Giả:

Đoái xóm kia có cửa,
Kíp kêu nó mở ra.
Ê người ở trong nhà,
Mau đi ra mở cửa.
(Ông già ra mở cửa, thấy Hành Giả, sợ hết hồn, nói khùng)

Sơn lão:

Tiểu quỉ, tiểu quỉ,
Đại ma, đại ma.
Ê người ở trong nhà,
Chạy ra mà cứu lão.

Tam Tạng:

Lão phu hưu úy cụ, hưu úy cụ,
Tha thị ngã môn đồ, ngã môn đồ.

Sơn lão:

Ông này mỉa dạng thầy tu,
Ông trước in hình quỉ sứ.

Tam Tạng:

Ta vâng mạng Đường hoàng phán dạy,
Sang Tây phương bái Phật cầu kinh.
Đêm tối tăm chẳng lẽ đơn hành,
Xin tạm nghỉ ngày mai thời (trẩy) gót.

Sơn lão:

Thời như chú có phải đường,
Đường cũng ngọt không đường cũng tốt,
Chú rợ kia thiệt chú ở mô?
(Hành Giả nạt lớn)

Hành Giả:

Lão quái này nói rất hồ đồ,
Tuy có mắt không phân hiền bỉ.
Người Đường quốc vốn là sư phụ,
Còn ta thời không mật không đường.
Mỗ vốn là Đại Thánh Tề Thiên,
Non Lưỡng giái ở trong thạch hạp,
Sao ngươi dám buông (7) lời chả chớt.
Tua nhìn tường thử mỗ là ai?

Sơn lão:

Bây giờ nhìn lại thiệt ngài,
Khi nãy ngờ là vật lạ.
Sao chun ra khỏi đá,
Thế đóng chắc hơn đinh.

Hành Giả:

Nhờ có lòng sư phụ thương tình,
Bèn cứu mỗ khỏi miền thạch hạp.

Sơn lão:

Vậy thời tôi không biết,
Xin chớ chấp già nua.
Tuổi Tề Thiên thế tót tuổi tôi,
Như tôi nay,
Một trăm tuổi ngoài dư ba chục.

Hành Giả:

Vậy thời hãy lớp con lớp cháu,
Sao dám lờn đấng chú đấng cha?
Như tôi nay,
Sanh đến giờ chẳng kể làm chi,
Ở thạch hạp năm trăm năm lẻ.

Sơn lão:

Nghe lời gã mới hay tôi trẻ,
Một mình tôi ước tuổi đã già.
Lão xin chạy vào nhà.
Sắm bữa cơm khoản đãi.

Hành Giả:

Khổ nhà ngươi chịu vậy,
Nấu nồi nước tắm chơi.
Năm trăm năm chiếu đất màn trời,
Chưa hề gội mình sương vóc tuyết.
Công nhà ngươi chớ tiếc,
Thầy tớ mỗ mới xong.
Có chỉ kim cho mỗ mượn cùng,
May một cái quần (b) da mà mặc.

Lại nói:

Trong mình sạch ngoài mình khỏi rách,
Sư phụ xem lịch sự hay không?

Tam Tạng:

Thế gian tốt xấu không cùng,
Ngươi thiệt in ngươi Hành Giả.
Săng nọ sương rơi mấy lá,
Non kia ác ngậm đòi cây.
Giã chủ ông tự tại chốn này,
Thầy tớ mỗ trông chừng tới đó.

Lại nói:

Thu sảy lá đòi ngàn mới đỏ,
Đông mai tùng mấy cụm đều xanh.
Đành hay tạo hóa sanh thành,
Thấm thoắt mau tày nháy mắt.
(Có 6 người cầm đao kiếm, một người lớn giọng chận đường)

Một người:

Non núi nọ thôn trang lục tặc,
Hòa thượng nào dám tới chốn này?
Mấy bàn triêng hành lý nộp đây,
Thời chúng mỗ nhiêu tha tánh mạng.

Tam Tạng:

Văn ngôn phủ tán, phủ tán,
Thính thuyết hồn phi, hồn phi.
(Hành Giả đỡ Tam Tạng)

Hành Giả:

Những loài hèn nó dám làm chi,
Nó đem nộp bàng triêng cho mỗ.

Tam Tạng:

Hai tai gã sao không nghe ngó,
Nó truyền rằng tua nộp hành trang.
Tai thầy nghe vốn đã rõ ràng,
Sao nói lộn nó thời đem nộp?

Hành Giả:

Vả chúng nó dám đâu đường đột,
Thầy ngồi đây giữ ngựa cùng đồ,
Để mặc tôi với nó tranh đua,
Xem thử nó sức là bao nả.

Lại nói:

(Hành Giả xoa tay làm lễ)
Lời dám trình các gã,
Đón mỗ lại làm chi.

Một người:

Tên xứ nào chẳng biết tuồng chi,
Thanh danh mỗ người nào cũng rõ.
Hàng hảo tâm sơn chủ,
Tiển Kinh Đích đại vương.
Ngươi tua phụng mạng hành trang,
Thời mỗ mới nhường đạo lộ.

Hành Giả:

Mỗ vốn thiệt ông Tằng sơn chủ,
Mỗ chỉn là ông Cố đại vương.
Danh các ngươi thế hỡi tầm thường,
Cho nên mỗ mới nghe không thấu.

Một người:

Như vậy ngươi nghe chưa rõ,
Ta tua nói lại ngươi hay.

Tán:

Như ta đây tên là Nhãn Khan hỉ, còn các anh em nhĩ thính nộ, tị xú ái, thiệt thường tư, ý kiến hoan, thân bản ưu.

Lại nói:

Sao nhà ngươi chẳng sợ chẳng thù,
Trong thiên hạ ai ai đều mắc.

Hành Giả:

Vậy mới rằng lục tặc,
Bây vốn thiệt loài hèn.
Tao đây là ông (b) Tổ ông Tiên,
Tao thiệt lớp cha lớp chú.
Bây ăn cướp kim ngân châu báu,
Khá đem ra chia mỗ một phần.
Vậy thời bây mới đặng an thân,
Bằng nghịch mạng quyết không tha thứ.

Một người:

Vậy tên này rất dữ,
Nếu tha nó chẳng lành.
Sáu đứa ta hiệp lực giao chinh,
Một mình nó thoát đâu cho khỏi.
(Nói xong, cả bọn cầm đao thương, xúm đánh Hành Giả).

Cùng nói:

Sao đặng hỏi, sao đặng hỏi,
Quyết chẳng tha, quyết chẳng tha.
Của nhà ngươi đã chẳng cho ta,
Sao lại khiến chia phần cùng mỗ?
(Hành Giả để cho đánh, không đỡ).
Trên đầu nó tuy không đắp gỗ,
Trên lưng kia thế có dát đồng.
Sáu đứa ta đánh đã nên hung,
Một mình nó sao không nao núng.
(Hành Giả cười).

Hành Giả:

Mình ta còn chưa đụng,
Sao chúng gã đều lui.
Lấy kim kia biến một cái chùy,
Truyền các gã tua đừng chạy mất.

Một người:

Thế thời thầy châm chích,
Nên mới có sắm kim.
Vả chúng ta không bịnh chi thêm,
Sao thầy nọ đem kim tới chữa.
(Hành Giả cầm kim, hô biến ba lần, đánh chết 6 tên lục tặc).

Hành Giả:

(9) Sáu đứa nọ sao đà đều mất,
Thủ áo quần trình với Tôn sư.

Lại nói:

Ta đều đi kẻo bóng đã trưa,
Mấy đứa nó tôi đều giết hết.

Tam Tạng:

Nghe thôi phách lạc,
Thấy nói hồn phi.
Nó đón đường nó chẳng cho đi,
Là tội nó chưa ưng tội mất.
Ngươi dầu có tài năng lẫm liệt,
Đuổi nó đi cho khỏi nẻo đường.
Nó cũng người vốn kẻ vô can,
Không thù oán sao mà đánh thác?
Đã mắc chữ vô cô uổng sát,
Sao làm nên hòa thượng thầy tu?

Hành Giả:

Thiệt thầy chẳng lo sâu,
Mấy lời phân rất cạn.
Đánh thác nó thầy kêu hỡi ức,
Tha nó thời thầy mắc thác oan.

Tam Tạng:

Ta từ ngày thọ giới quì hương,
Thề chẳng dám làm điều phi ngãi.
Dầu đến đỗi vô đoan thọ hại,
Thác cũng cam không dám làm hung.
Ai như mầy giết kẻ hư không,
Quan tra hỏi mầy cung sao khỏi?

Hành Giả:

Việc ấy rằng ta có tội,
Giết người mỗ lấy làm thường.
Thuở Hoa Sơn xưng thánh xưng vương,
Giết hết (b) mấy thằng hung thằng bạo.
Nghe sư phụ đến quan mà cáo,
Nó cáo tôi trạng biết mấy ngàn.

Tam Tạng:

Bởi nhà ngươi quen thói ngang tàng,
Vậy mới chịu ngàn năm lao khổ.
Nay đã chịu thiền môn qui củ,
Sao hãy còn làm việc oan khiên?
Vậy thời đi chẳng đến Tây Thiên,
Vậy thời quyết chẳng nên hòa thượng.
Tàn nhẫn, tàn nhẫn,
Ngang tàng, ngang tàng.

Hành Giả:

Ngỡ Tôn sư chút có lòng ngoan,
Hay hòa thượng cũng cưu thói dữ.

Lại nói:

Tưởng đến tâm đầu đại cử,
Nghe thôi diện thượng yên xung.
Như ta nay,
Làm chẳng nên hòa thượng thiền trung,
Đi chẳng tới Tây thiên Phật Tổ phải a!
Chi đến đỗi Tôn sư phẫn nộ,
Mỗ quyết về Hoa động cũng xong.
Thầy còn nghỉ tạm sơn trung,
Đặng mỗ đông phương khoái khứ.
(Tam Tạng quay đầu, không nhìn).

Tam Tạng:

Ngỡ giáo hóa đặng mà gìn giữ,
Hay giận hờn thoắt đã đi rồi.
Sau trước một mình tôi,
Tới lui làm sao đặng?
(Buồn, khóc).

Lại nói:

Chẳng trọn tới Tây phương muôn dặm,
Chốn sơn lâm sao có một (10) mình.
Mới nói qua vài tiếng khinh khinh,
Sao nhà gã đã đi bét bét.

Thán:

Khâm thán hoàng thiên tối lệ điên,
Ngô gia đồ đệ thậm vô duyên.
Sơn lâm khởi thị hương thôn xứ,
Mãnh thú yêu ma mạng khởi diên.

Lại nói:

Phải phận hèn đồ đệ vô duyên,
Gã mắc nạn sao mà cho cứu.
Mình cô độc gian nan phải chịu,
Giữa lộ đồ há dễ nài bao.
Một mình này chi sá cần lao,
Vai thời gánh tay thời dắt ngựa.

Hát nam:

“Vận cô cùng vô lự gian nan,
Miễn lòng không phụ lời vàng.
Dễ nài thịt nát xương tan giữa rừng”.
(Có một ông lão cầm một xấp quần áo, với một mão hoa).

Lão mẫu:

Mau chỉ dặm băng chừng,
Kẻo vầng ô đã xế.

Tam Tạng:

Bên đường kia kíp ghé,
Đặng bà lão người đi.

Lão mẫu:

Xem người này thiệt dạng ông thầy,
Đi rừng núi sao không thầy tớ?

Tam Tạng:

Tôi vốn thiệt Đường hoàng tử đệ,
Dạy sang miền Tây thổ cầu kinh.

Lão mẫu, Tán:

(b) Nhà ngươi rằng sang tại Tây phương Phật mà cầu kinh. Phật là tại Thiên Trúc Quốc Lôi âm tự .

Lại nói:

Nghe lời thầy lão muốn giật mình,
Đây tới đó mười muôn dư dặm.
Sao có một người một ngựa,
Lại không đệ tử tùy tùng?
Đi tới đó khôn xong,
Ở lại đây cũng rối.

Tam Tạng:

Tôi vốn có một người theo dõi,
Ai dè là người rất ngu ngoan.
Dạy vài câu bớt thói bạo tàn,
Gã thất ý đi đà bặt tích.

Lão mẫu:

Nói chi sự môn đồ ngỗ nghịch,
Một lời này lão nói cùng thầy.

Bạch:

Ngã hữu cẩm y, nhứt lãnh nhi,
Cô kim hoa mão tích đa thì.
Ngô nhi thọ giới thường phi phục,
Bỉ thử ngô thương bất khẳng di.

Lại nói:

Nếu để thời tưởng tới cô nhi,
Nên cho gã dĩ sung phục dụng.

Tam Tạng:

Ơn lão mẫu hải hồ lượng rộng,
Một mình tôi đài đệ làm sao?

Lão mẫu:

Môn đệ thầy về tại hướng nào,
Thầy chỉ hướng thời ta cũng rõ.

Tam Tạng:

Tôi khôn tỏ chốn (11) chàng nương ngụ,
Chàng ra về thiệt tại hướng đông.

Lão mẫu:

Ngỡ chốn nào ta hỡi lạ lùng,
Về chốn ấy thiệt là quê mỗ.
Vả ta có một thiên chân chú,
Tên gọi rằng chú khẩn cô nhi.
Nhà gã tua đòi bữa nhớ ghi,
Đồ đệ ấy ắt về cùng gã.
Như đồ đệ về, nữa thời
Áo mão nọ cho chàng mặc đã,
Sai sử chàng dầu chẳng thuận tùng.
Nghe lời ta niệm chú cô nhi,
Thời chàng phải nhứt tùng sở mạng.
(Tam Tạng cúi lạy).

Tam Tạng:

Chúng tôi thiệt một loài hôn muội,
Nhờ lão nương giáo hóa quang minh.
(Có một đạo hào quang, lão mẫu bay đi).

Lại nói:

Thấy kim quang một đạo hiện hình,
Sao lão mẫu bây giờ đã mất?
Quả thị Quan Âm Phật,
Xuống giáo hóa đạo tràng.
Kíp vun đất phần hương,
Vọng đông phương bái tạ.
Áo mão nọ để vào hành lý,
Đặng kiếm nơi ngồi niệm chân kinh.

Hành Giả:

Căm thay sư phụ vô tình,
Xui mỗ làm điều phi nghĩa.
Sáu đứa nọ vốn là đoàn quái,
Mỗ giết đi lẽ đáng tạ ân.
Lại nói ta làm việc bất nhân,
Để ngồi đó mỗ về bõ ghét.

Lại nói:

Cân đẩu vân mấy lượt,
Miền Đông Hải đã sang.
Kíp vào thăm gã Long Vương,
Xem thử gã làm chi đó.

Lại nói:

Phải kiếm người thông báo,
Mới tin thấu đến chàng.
Thấy một thằng quỉ sứ mới sang,
Sao nó chạy chốn nào mà mất?

Lại nói:

Mầy kíp vào thưa thiệt,
Có Đại Thánh tới chơi.

Long Vương:

Thấy tin vội vã lòng mừng,
Thỉnh tựu tiền đường an vị.

Lại nói:

Nghe nhà gã nay đà khỏi lụy,
Tưởng trở về chiếm động Hoa Sơn.
Nào hang hay dần[1] duyên,
Tái vãng Long cung tương phỏng.

Hành Giả:

Về Hoa động lòng đây có muốn,
Nhưng mà,
Cũng muốn làm một gã đại sư.

Long Vương:

Làm đại sư là tu luyện cùng ai,
Thưa Tôn trưởng phân qua nghe thử.

Hành Giả:

Có Nam Hải Quan Âm Bồ Tát,
Khiến ta theo Tam Tạng cầu kinh.
Vậy Tôn sư mạng nhứt pháp danh,
Gọi tên mỗ làm Tôn Hành Giả.

Long Vương:

Khánh hạ, khánh hạ,
Khả gia, khả gia. (12)
Vậy mới rằng vi chánh khử tà,
Vậy mới gọi siêu phàm nhập thánh.
Sao chẳng qua Tây thổ,
Mà trở lại Đông phương?
(Hành Giả cười).

Hành Giả:

Gã Đường tăng vốn thiệt tầm thường,
Không biết đặng lão Tôn chân tánh.
Vì mần ri, ta phân cho ngươi nghe

Bạch:

Lộ phùng mao tặc lục nhân hành,
Tiễn kinh Tôn sư đại náo tranh.
Ngô khủng sát tha, ngô trảm tặc,
Tôn sư trách ngã cảm tung hoành.

Lại nói:

Vậy nên ta phản bộ đông hành,
Để sư phụ một mình tây hướng.
Vừa kinh quá Long cung lộ thượng,
Nên mỗ vào tạm nghỉ uống trà.

Long Vương:

Vậy thời Tam Tạng khôn đi,
Nội thị phanh trà giải khát.
(Hành Giả uống trà, quay đầu nhìn thấy bức tranh, hỏi Long Vương)

Hành Giả:

Bức tượng nọ treo trên cao [ngất],
Chẳng hay là bức tượng chi?

Long Vương:

Sanh Đại vương thiệt trước tượng này,
Tượng này thiệt vốn đời Tây Hớn.
Nó gọi tượng Dĩ Kiều tiến lý,
Sao Đại vương thoắt vậy đã quên?
(Trong tranh có Hoàng Thạch công với Trương Lương dâng dép. Long Vương chỉ hai người, nói: Như tượng nớ là mần ri)

Bạch:

Giá đẳng tiên ông thị Thạch công,
Điều điều Kiều thượng hứng xuân phong.
Trương Lương bản thị phi đồ đệ,
Tiến lý na hiềm khổ cúc cung.

Tán:

Như Trương Lương là phi Thạch công chi đồ đệ, mà Trương Lương, khiêm cung tiến lý như thử, tam hào vô đãi mạn. Vậy Thạch công thọ dĩ Thiên thư, tá thành Hớn nghiệp, cho Trương Lương vi Hớn trào ngươn lão đệ nhứt công thần, quyết hậu thái bình chi tế, Trương Lương lại tùng Xích (tòng) tử du, tu thành tiên đạo. Ấy sự Trương Lương thời mần rứa đó.

Lại nói:

Nay Đại vương đã theo dõi Đường Tăng,
Bằng trở lại sao tu thành chánh quả cho?
Hành Giả trầm ngâm hồi lâu
Lời mỗ luận xin chàng tài xử,
Nếu trở về e ngộ liễu tiền trình chăng?

Hành Giả:

Văn ngôn như mộng sở tỉnh [tinh],
Thính thuyết mang nhiên hối ngộ.
Không nhà gã luận bàn kim cổ,
Thời lão Tôn ngộ liễu nhứt sinh.
Từ đây đặng mỗ khởi trình,
Tới đó theo cùng Tam Tạng.

Hát khách:

Ly liễu Long cung túng đẩu vân,
Giá hồi tây hướng lộ đồ kinh.
Miễn thành chánh quả siêu trần chướng,
Vô nại đông (13) tây vạn lý thân.

Quan Âm:

Nay ngươi đà thoát khỏi gian truân,
Lẽ thời chịu thiền môn giáo hoá.
Theo Tam Tạng tây phương kinh quá,
Lại trở về đông thổ làm chi?
Hành Giả thi lễ

Hành Giả:

Lời Tôn sư đâu dám quai vi,
Quả Tam Tạng có lòng chửng cứu.
Làm đồ đệ thời tôi cũng chịu,
Gã hiềm tôi một đứa hung ngoan.
Vậy nên tôi trở lại đông phương,
Tôi đâu dám quên lời giáo hối.

Quan Âm:

Cãi lời mỗ lẽ thời gia tội,
Hãy tha cho theo với Đường Tăng.
Bạo tàn tua khá cải răn,
Vấy mới tu thành chánh quả.

Hành Giả:

Cúi đầu đa tạ, đa tạ,
Đệ tử phụng hành, phụng hành.

Tam Tạng:

Hiểm nguy bấy sơn trình,
Tới lui đà khó liệu.

Hành Giả:

Ngỡ sư phụ đi đà mấy nẻo,
Hay hỡi còn thơ thẩn bên đường.

Tam Tạng:

Từ ngươi trở lại Đông phương,
Một mỗ dám đâu Tây khứ.
Phải ngồi chờ đệ tử,
Hay may lại gặp đây.

Hành Giả:

Lòng lão Tôn (b) đâu dám phụ thầy,
Về hạ giới uống trà đỡ khát.

Tam Tạng:

Ngươi đã chịu thiền gia [y] bát,
Lời nói rằng tua khá thiệt thà.
Ngươi khỏi đây mới đặng một giờ,
Đi sao tới Long cung uống nước?
(Hành Giả cười)

Hành Giả:

Phép nhiệm mỗ vốn thầy chưa biết,
Bắt đẩu vân dặm kể dư muôn.
Một phen qua thấu hết càn khôn,
Rồi trở lại trải cùng thiên địa.

Tam Tạng:

Ngươi cậy đặng nhiều dị sự,
Vậy nên ngươi mới bỏ ta.
Đó khát thời đó đặng uống trà,
Đây đói nữa chưa hề một miếng.

Hành Giả:

Phải, thầy đà đói lắm,
Để tôi hóa cơm chay.

Tam Tạng:

Chẳng luận ngươi biến hóa làm chi,
Gói thầy có bánh khô sắm trước.
Ngươi lấy bát đặng đi kiếm nước,
Ăn cùng nhau rồi sẽ tiến hành.
(Hành Giả mở gói lấy bánh khô dâng cho Tam Tạng)

Hành Giả:

Gói có ba cái bánh để dành,
Có áo mũ làm sao cũng lạ.
Của ấy vốn Đường hoàng sắm sửa,
Thầy làm chi có của tốt này?
(14) Tam Tạng:

Thuở bé thầy sắm để đến nay,
Không phải của Đường hoàng sắm sửa.
Như đội mão này,
Kinh không đọc mà kinh cũng nhớ,
Còn như mặc áo nớ,
Lễ không tu thời lễ cũng nghiêm.

Hành Giả:

Cho tôi mặc một phen thử.

Tam Tạng:

Muốn mặc thời ngươi mặc.
(Tam Tạng mật niệm chú đầu đông: Niệm cô nhi, niệm cô nhi, thoát ngu si thoát ngu si. Thùy khinh mạn, thùy khinh mạn, thống nan y, thống nan y. Hành Giả nhức đầu la lớn).

Hành Giả:

Ướm áo mão nhắm chưa vừa mắt,
Nay ai xui nên lại nhức đầu.
(Đau quá, Hành Giả lăn lộn dưới đất. Tam Tạng sợ hư kim cô chú, không niệm nữa).

Lại nói:

Đệ tử đau, không tụng kinh cầu,
Thầy ngồi tụng những kinh chi vậy?

Lại nói:

Thầy không tụng thời không đau mấy,
(Hành Giả lấy tay lột mão, lột không được)
Mão làm sao mắc lấy làm vầy?
Hay là nó đã mọc cây,
Nghĩ lại rụng rời lông lá.
Kíp lấy tú châm tao cạy,
Mão nầy thử mắc làm sao?
(Tam Tạng lại niệm chú, Hành Giả lại nhức đầu dữ dội)

Lại nói:

Khi nãy đến giờ mới biết,
Thiệt là sư phụ chú ta.
(b) Tam Tạng:

Đau hoảng kinh Hành Giả nói ma,
Ta vốn niệm khẩn cô nhi chú.

Hành Giả:

Quả Tôn sư không chú,
Thời niệm lại ta nghe.
(Lại niệm, lại nhức đầu)

Lại nói:

Không nghe thiệt không nghe,
Đừng niệm, ôi đừng niệm.

Tam Tạng:

Lời giáo hối ngươi còn nghe chẳng,
Thói mạn khinh ngươi đã hết chưa?

Hành Giả:

Từ nay tôi xin khấn xin chừa,
Lạy sư phụ không khinh không dễ.
(Lấy thiết bảng muốn nện Tam Tạng)
Tưởng tới tâm đầu hỏa khởi,
Nhớ thôi diện thượng lôi hoanh.
Thủ lai thiết bảng hoành hành,
Vọng đả Đường tăng Tam Tạng.
(Tam Tạng niệm lớn, Hành Giả càng đau đầu, đánh rớt thiết bảng).

Tam Tạng:

Vậy cũng gọi xin chừa xin khấn,
Vậy cũng rằng không dễ không khinh.

Hành Giả:

Xin sư phụ thương tình,
Phen này thề chẳng dám.

Lại nói:

Giờ chịu phép dám đâu khinh mạn,
Xin hỏi thầy ai dạy phép này?

Tam Tạng:

Khi ngươi về mỗ hỡi ngồi đây,
Có lão bà dạy min cầm gã.

Hành Giả:

Không bà nào (15) mà lạ,
Thiệt bà Phật Quan Âm.
Gã nay có dạ hại min,
Min dễ không lòng thù gã.

Tam Tạng:

Miệng hỡi còn nói chả,
Sao không tưởng phận sau.
Phép người truyền thầy tụng còn đau,
Người niệm lấy thời ngươi ắt chết.

Hành Giả:

Lời thầy phân đã hết,
Tôi há dám cãi nào.
Tụng câu chi cho mỗ hết đau,
Đi đâu nữa cũng xin đi với.

Tam Tạng:

Bây giờ đà hết rối,
Niệm câu nọ ắt xong.
(Niệm cô nhi hóa từ bi, hồi thiện đạo, thống kham y. Hành Giả cởi thử áo mão)

Hành Giả:

Đa tạ chú đầu đông,
Thấy mặt mà nên gớm.

Lại nói:

Xin sư phụ lên đường cho sớm,
Không tụng kinh, đi đến ở đâu?

Tam Tạng:

Kẻ ngang tàng biết chịu phép màu,
Đầu cúi tạ Quan Âm Bồ Tát.

Lại nói:

Trước một phen cải ác,
Sau chưa biết dường bao.
Chúc Thánh hoàng cao thọ thêm cao,
Nguyện cẩn tiến hạ hồi phân giải.

__________________

[1] Dần: cùng làm quen với nhau.