Tây Du Ký Hồi 15 - Phiên âm

Nguyễn Văn Sâm

Tây Du Ký Hồi 15 - Phiên âm

Núi Xà Bàn, các thần ngầm giúp,
Thác Ưng Sầu, long mã thắng cương.

Mưa nhân nhuần gội,
Gió đức xa đưa.
Sánh năm ba chúa thánh trị đời,
Phen bốn bảy tôi hiền giúp nước.
Sang Tây phương bái Phật,
Mỗ Tam Tạng là danh.
Miễn đừng trên chín bệ đinh ninh,
Bao nại dưới đòi phen lao khổ.
Hành Giả ngươi coi!

Lại nói:

Huyền nhai tiểu bích kỳ khu lộ,
Điệp lãnh tằng loan hiểm tuấn sơn.
Miễn đừng phụ tấm lòng đan,
Chi sá hiểm nguy nội lục.
Cùng nhau đều tiến bộ,
Kẻo vừng ác đã cao.

Lại nói:

Bên tai nghe nước chảy lao xao,
Ngộ Không biết chốn này hay chẳng?

Hành Giả:

Khe đó thiệt Ưng Sầu đại giản,
Núi đây thời tên gọi Xà Bàn.
Dòng nước trong Ngân Hán khôn đang,
Hình non hiểm Thái Hàng khó ví.
(Ngựa Tam Tạng đến khe uống nước, một con rồng nhô ra nuốt mất con ngựa.Tam Tạng té xuống ngựa, Hành Giả ôm hành lý. Thầy trò lủi chảy. Con rồng lặn tuốt xuống khe.)

(2) Lại nói:

Rồng ở đâu rất lạ,
Thế nó ở khe này?
Hành lý xem ốt hãy còn đây,
Mã sất chạy sao mà mất đó?

Lại nói:

Đem gánh nọ giao sư phụ,
Lên mây xem ngựa chạy chốn nào?
(Trở về thưa với Tam Tạng)

Lại nói:

Xem tư bề không thấy âm hao,
Quả ngựa nọ rồng đà nuốt thiệt.

Tam Tạng:

Họa là nó thập phần kinh lật,
Nên chạy vào những chốn hiểm nguy.
Như miệng rồng lớn đặng bao nhiêu,
Yên cùng ngựa nó đều nuốt đặng?

Hành Giả:

Tôi vốn thiệt kim tinh hỏa nhãn,
Một lần xem ngàn dặm hữu dư.
Thân huống đà lên đứng trên mây,
Mắt nhìn xuống vốn không thấy ngựa.

Tam Tạng:

Đường đi vốn thiên sơn vạn thủy,
Khôn ngựa thời thốn bộ nan di.
Tưởng thôi lòng lại thương bi,
Nhớ tới khôn cầm giọt lệ.

Hành Giả:

Xin thầy đừng năn nỉ[1],
Để mặc mỗ toan đương.
Thầy ngồi đây giữ lấy hành trang,
Tôi xuống đó đánh đòi ngựa lại.

Tam Tạng:

Khoan chạy, khoan chạy,
Chẳng nên, chẳng nên.
Ngựa đặng chăng lẽ ấy khôn tường,
Rồng nuốt mỗ, chạy làm sao khỏi?
(Hành Giả rống như sấm.)

Hành Giả:

Sao Tôn sư rắc rối,
Làm mỗ liệu không xong.
Cũng không ưng ngựa mất đồ trung,
Cũng không muốn mỗ tìm Khê hạ.
Vậy ngồi đây cùng gã,
Giữ hành lý đến già.
(Bỗng giữa trời có tiếng người kêu.)

Thần:

Tam Tạng sư chớ khá tư ta,
Tôn Hành Giả tua đừng cấp phát.
Ta thọ mạng Quan Âm Bồ Tát,
Tại ám trung bảo hộ thủ kinh.

Hành Giả:

Những thần nào tua khá báo danh,
Đặng mỗ biết phòng khi sai bát.

Thần:

Gã đẳng thị Lục Đinh, Lục Giáp,
Cùng Công Tào hộ giá Già Lam.
Cùng nhau nhựt dạ luân phiên,
Hộ tống đạo đồ cẩn thận.

Hành Giả:

Các thần khá nghe lời ta dặn,
Hộ Tôn sư tọa tại đồ trung.
Đặng cho ta đánh với nghiệt long,
Thu mã sất tương hồi sư phụ.
(Các thần vâng lịnh)

Lại nói:

Đã có chư thần bảo hộ,
Tôn sư tua (3) khá khoan hoài.
(Hành Giả hét lớn.)

Lại nói:

Giá nghiệt long hoàn ngã mã lai,
Chăng vậy ắt tội vô tha tử.

Nghiệt long:

Thính thuyết tâm đầu đại cử,
Văn ngôn lãng lý ba xung.
Tên nào tới trước miệng rồng,
Lớn tiếng lại kêu đòi ngựa.

Hành Giả:

Chân yêu nghiệt, chân yêu nghiệt,
Vật bôn đào, vật bôn đào.
Trả ngựa ta bất phạm thu hào,
Bằng không trả nan lưu phiến giáp.
(Đánh nhau, rồng thua, lặn mất xuống khe.)

Lại nói:

Sao bây giờ giấu vuốt,
Chẳng còn dám giương vây.
Khe rất sâu vô kế khả thi,
Âu phải dụng ác ngôn nhục mạ.
Rồng nghe nói trong đời vật lạ,
Ăn ngựa ta vốn thiệt loài hèn.
Lên tại đây đối địch mới khen,
Lặn dưới đó ấy là vật chết.

Lại nói:

Thế tuy chàng đã điếc,
Sao chẳng thấu lời ta.
Kíp về trình với Tôn sư,
Rồi sẽ biệt đồ tha sách.

Lại nói:

Đánh với nó cũng đà hết sức,
Nó bây giờ đã lặn xuống khe.

Tam Tạng:

Tài hàng long phục hổ từng nghe,
Sao rồng nọ ngươi không hàng thử?

Hành Giả:

Lọ phải thầy khích lệ,
Mỗ tận triển uy phong.
Cấp đồ tựu khê trung,
Niệm long giang thần chú.

Lại nói:

Mày khá tua ở đó,
Xin chớ trốn mỗ đây.

Miệng đọc chú:

Úm ma ni phúc hải phiên giang, cấp luật lịnh yêu long trực thượng tái thử long đảo điên giảo nha trực thượng mạ.

Nghiệt long:

Nễ hà đại phủ, đại phủ,
Cảm lộng thần thông, thần thông?

Hành Giả:

Trả ngựa ta, ta hỡi nhiêu dung,
Bằng khinh mỗ, mỗ không khoan thứ.

Nghiệt long:

Nễ mã tại ngô đỗ lý,
Bất hoàn nễ cánh hà như?

Hành Giả:

Chẳng trả thời mỗ quyết phân thây,
Xem thử gã tài năng bao nả!
(Đánh nhau thiệt lâu, rồng thua chạy.)

Nghiệt long:

Cấp dã, cấp dã,
Nguy tai, nguy tai.
Xuống khe đà khó nỗi an bày,
Kíp biến một thủy xà độn tẩu.

Hành Giả:

Nó bại tẩu gẫm âu mới đó,
Ta cản truy sao đã mất đây?
Tìm đã không hình tích đông tây,
Kiếm lại vắng âm hao nam bắc.
Nó đào độn ẻ đà khôn bắt,
Đòi thổ thần tra hỏi mới xong.
Úm ma ni thử xứ trung lai, thổ thần cấp như phong na rị. Thổ thần đều đến.

(4) Lại nói:

Mất nghiệt long mỗ hãy đương xung,
Đánh mấy gã năm côn kiến diện.

Hai thần:

Lạy Tề Thiên phương tiện, phương tiện,
Thiệt chúng mỗ không hay, không hay.
Khỏi năm non người đã đặng may,
Đánh kiến diện chúng tôi rất rủi.
Dám xin thứ tội, thứ tội,
Nếu đánh rất oan, rất oan.

Hành Giả:

Tha đòn cho khá nói rõ ràng,
Dưới khe nọ rồng nào đến ở?
Rồng làm sao cắc cớ,
Nuốt bạch mã Tôn sư.
Ở đây vốn biết hữu dư,
Việc đó khá phân cho rõ.

Nhị thần:

Chúng tôi nghe thuở nọ,
Đại Thánh chức Tề Thiên.
Trời không vì, đất cũng không kiêng,
Tên nào đó lại làm sư phụ? Lắm bấy.

Hành Giả:

Vốn các ngươi chưa rõ,
Nghe mỗ nói thời hay.

Bạch:

Ngã nhân Bồ Tát thiện tâm hành,
Tùy dữ Đường tăng vãng thủ kinh.

Tán:

Đồ kinh thử xứ, phùng giá nghiệt long ngật liễu Tôn sư mã sất. Vậy cho nên ta phải đòi các thầy tới là mần ri.

Bạch:

Lộ phùng na nghiệt chân hà nghiệt,
Do dĩ như hà thuyết đắc minh?

Nhị thần:

Khe xưa nay không có yêu tinh,
Có một điều:
Khe thời rộng, nước thời trong lắm.
Chim bay tới khôn phân hình ảnh,
Nhìn xuống thời nó tưởng một bầy.
Nó xuống thời đều thác khe này,
Vậy mới gọi chốn Sầu Ưng giản.
Còn như có một quỷ nghiệt long ở đó, là mần ri:

Cùng bạch:

Tích nhựt Quan Âm cứu nghiệt long,
Tống tha tiềm phục tại khê trung.
Đẳng lai tây khứ cầu kinh thủ,
Khởi hứa tha vi thử bạo hung.

Lại nói:

Ai ngờ là cưu thói buông lung,
Vậy nên phạm tôn uy Đại Thánh.

Hành Giả:

Thế nó biến tiểu xà thoát nạn,
Sao mỗ tìm hết sức không ra?

Một thần:

Tuy rằng khe sâu tợ Hoàng hà,
Thêm lại có ngàn muôn hang hố.
Nay Đại Thánh muốn tìm đặng nó,
Phải ngửa nhờ phép cả Quan Âm.

Hành Giả:

Nếu vậy thời sư phụ lao tâm,
Ta đều tới thưa người cho rõ.

Tam Tạng:

Đường thắng phụ ốt còn chưa thấu,
Sao Ngộ Không đi chẳng thấy về?

Hành Giả:

Nó vốn là lực nhược thân bì,
Nó đã biến thủy xà khứ liễu.
Thổ thần nói bắt (5) thời rất khó,
Nhờ Quan Âm pháp lực mới xong.

Tam Tạng:

Biết bao giờ tiến bộ đồ trung,
Sang Tây thổ cầu kinh Phật tổ.
Hành Giả khá tua tới đó,
Thân cùng Bồ Tát Quan Âm.
(Giữa trời có tiếng gọi lớn.)

Người trên trời:

Hành Giả tua đình bộ sơn lâm,
Để mặc mỗ hồi thân Nam hải.

Hành Giả:

Ngươi đã có lòng phò trợ,
Khá tua thuấn tức vãng lai.

Lại nói:

Sư phụ cùng Thổ địa an bày,
Đặng mỗ tựu khê biên khiếu mạ.
(Quan Âm trên mây gọi Hành Giả.)

Quan Âm:

Ngộ Không hưu phiến họa,
Ngã Nam hải thân lai.

Hành Giả:

Ta đầu thống tại gã gây tai,
Kíp kiểu bộ không trung hỏi đã.

Lại nói:

Gã vốn thiệt từ bi chánh quả,
Gã chăng là Bồ Tát tân lương.
Sao đành lòng làm việc tai ương,
Dạy Tam Tạng nhiều phen hại mỗ?

Quan Âm:

Đồ hầu tử quen tuồng lỗ mỗ,
Ta dạy ngươi theo kẻ cầu kinh.
Vậy Đường tăng thoát tử cứu sinh,
Lẽ thời tới tạ ơn hoạt mệnh.
Sao ngươi đã không lòng minh cảm,
Lại tới đây nhiều tiếng thị phi?

Hành Giả:

Gã cứu ta khỏi nạn gian nguy,
Gã cũng có tấm lòng lương thiện.
Vậy theo dõi Đường tăng nguy hiểm,
Ta đành lòng không chút nề hà.
Sao lại cho một cái mão hoa,
Phỉnh mỗ đội tức thời mắc lấy.
Rồi lại đọc câu chi quấy quấy,
Càng đọc thời đầu mỗ càng đau.
Xin người nghĩ lại trước sau,
Có phải tại người hại mỗ?

Quan Âm:

Đường chánh quả ngươi đà chẳng thấu,
Thói tung hoành ngươi một lòng cưu.
Nếu chẳng làm cho gã đến đau,
Thời gã quyết khi man thiên thượng.
Vậy ta phải tiêu trừ nghiệt chướng,
Khiến nễ theo phép tắc Du già.
Ngươi tua tử tế lo ba,
Chớ khá hồ đồ chấp một.

Hành Giả:

Tôi vốn người ngu dốt,
Lời phân biện khôn thông.
Tôi lại dám thưa Quan Âm.
Nuôi làm chi những cái nghiệt long,
Ngựa sư phụ nó đà nuốt mất.
Ở cùng Phật sao không theo Phật,
Phải việc tôi đã nói về tôi.

Quan Âm:

Như việc điều long ta phân cho ngươi nghe:
Ngươi còn chưa biết đầu đuôi,
Để mỗ phân tường gốc ngọn.

Bạch:

(6) Giá đẳng điều long thị hữu khiên,
Đế đình thân tấu dĩ đa niên.

Tán:

Như ta nuôi thử điều long tại Ưng Sầu giản chẳng qua là, đợi thủ kinh nhân, sử tha hộ tống. Chớ như Đông phương phàm mã thử khứ hề kham? Nay dầu có nuốt ngựa sư phụ đi nữa, là mần ri.

Bạch:

Tùng lai bĩ thử vô tương thức,
Trí sử điều long ngộ nhứt phiên.

Hành Giả:

Nay nó đà tiềm phục thâm uyên,
Đòi không đặng xin người phân thử.

Quan Âm:

Ngươi Yết Đế vâng lời ta dạy,
Tới khê biên đòi gã Ngọc Long.
Rằng có ta đã tới vân trung,
Truyền gã biến hình nhân ứng hậu.

Ngọc long:

Bất thăng khấu thủ, khẩu thủ,
Đa tạ hồng ân, hồng ân.
Ai lấy kinh chờ đã ân cần,
Mấy năm chẵn tôi chưa từng thấy.
Quan Âm chỉ Hành Giả.

Quan Âm:

Gã ấy thiệt thủ kinh đồ đệ,
Sao ngươi rằng không thấy một ai?

Ngọc long:

Gã ấy vốn cậy tài,
Cùng tôi thường đối địch.
Trải mấy kỷ khê trung cơ khát,
Nên có ăn mã sất của chàng.
Gã đòi phen cậy mạnh phân nhương,
Không nói đến thủ kinh tự dạng.

Hành Giả:

Ngươi không hỏi đến đàng danh tánh,
Khiến ta trình danh tánh với ai.

Ngọc long:

Ta hỏi ngươi tha xứ nhi lai,
Ngươi thường nói bất phân hà xứ.
Nào ngựa mỗ ở đâu trả lại,
Vốn chưa từng nói đến chữ Đường.

Quan Âm:

Gã Ngộ Không luống những thị cường,
Màng biết đến tên ai mà nói.
Nay nhìn lại ai dầu có hỏi,
Khá tiên thanh hai chữ thủ kinh.
Như vậy thời chẳng lọ phân tranh,
Ai ai cũng đem lòng úy phục.
(Hành Giả hí hửng)

Hành Giả:

Vậy thời trước tôi còn bất túc,
Nghe lời phân mới biết hữu dư.

Quan Âm:

Gã Ngọc Long đã gặp Đường sư,
Khá triệt khứ minh châu đính hạ.
Dùng cành liễu phất qua mình gã,
Đặng biến làm một cái long câu.
(Biến, thoát thân biến long câu na rị, liền biến thành ngựa).

Lại nói:

Bởi nhà ngươi tự thủ khiên cưu,
Nay khá dõi Đường tăng tu luyện.
Nghe ta dặn:

Bạch:

Thử khứ trình đồ bất kể niên,
Thiên sơn vạn thủy dụng nguy điên.
Nễ tu nỗ (7) lực toàn chung thủy,
Tha nhựt siêu phàm tái thượng thiên.
(Con ngựa mọp đầu vâng lịnh)

Lại nói:

Ngộ Không tua lãnh mã hồi tiền,
Giao cho gã Đường tăng thượng lộ.

Hành Giả:

Quan Âm hưu tiến bộ, tiến bộ,
Đãi ngã vấn phiến ngôn, phiến ngôn.
Sang Tây thiên dặm kể ngàn muôn,
Thêm phù trì phàm tăng Tam Tạng.
Rất sợ nỗi nan toàn tánh mạng,
Còn chi mà chánh quả qui y.
Vậy cho nên dám thưa Quan Âm, xin điểm hóa chỉ thị một hai lời, kẻo mà…

Tán:

Kim triêu bích phượng đa tri ngộ, minh bạch cù đầu thiểu chủ nhân chăng?

Bạch:

Chẳng những là mần rứa mà thôi
Vạn lý Quan Âm điểm hóa khai,
Như kim tây khứ thị ương tai.
Thảng phùng đại nạn tương hà giải,
Cửu đắc sàn dung nguyện tự tài.

Quan Âm:

Ngươi vốn chưa biết đạo làm người,
Sao tu luyện sao cho nên Phật?
Huống ngươi mới khỏi vòng khiển trách,
Không nạn này ắt chịu tai ương.
Còn như nay bảo hộ Đường tăng sang Tây phương Phật, dầu cho điều chi thời đã có ta, mần răng mà ngươi ngại.

Bạch:

Ngã môn tịch diệt đạo thành chân,
Chướng nghiệp tiêu trừ tất hữu nhân.

Tán:

Vạn nhứt nễ đáo thương thân chi xứ,hứa nhĩ khiếu thiên thiên, khiếu địa địa linh tương ưu hà cụ, mà ngươi sợ?

Bạch:

Khuyến nễ hưu hiềm lao khổ xứ,
Bài phân giải nạn tại ngô thân.

Lại nói:

Ngươi nhẫn dầu mắc chốn gian truân,
Có phép mỗ ắt là cũng khỏi.
Thủ dương liễu chi tam diệp, khiếu biến tam thanh, phóng tại Hành Giả tương tuấn.

Chú:

Biến, biến, biến liễu tam diệp hóa vi tam mao tại não hậu nan tiêu na lị.

Lại nói:

Giá tam mao tại nễ hậu đầu,
Ngộ nạn xứ tùy cơ ứng biến.

Hành Giả:

Ngửa vâng phép nhiệm,
Cúi tạ hồng ân.

Quan Âm:

Truyền giá bĩ tường vân,
Hồi Lạc già sơn thượng.
(Chỉ ngựa, nói).

Hành Giả:

Sao chẳng kiếm nơi nào tàng ẩn,
Còn đứng đây chờ mỗ làm chi?
Kíp khiên quá bôn trì,
Hồi bạch cùng sư phụ.

Tam Tạng:

Ngộ Không đà tới đó,
Lại có ngựa về đây.
Đặng nơi nào tuy rủi mà may,
Sao lại béo xem hơn ngày trước?

Hành Giả:

Quả Tôn sư không biết,
Nói dường thể chiêm bao.
Còn ngựa đâu tìm đặng nơi nào,
Ngựa kỳ trước rồng đà nuốt thiệt.
Như ngựa đó nhờ Quan Âm Phật,
Truyền Ngọc Long hóa lại thần câu.
Để đưa (8) thầy viễn thiệp lộ đồ,
Kẻo phàm mã ắt là ít sức.

Tam Tạng:

Ngưỡng mông đại đức,
Ngưỡng mông đại đức.
Đa tạ Quan Âm,
Đa tạ Quan Âm.
Thầy tớ đều từ giã sơn lâm,
Đặng tiến bộ tiền lai khê giản.

Thần suối:

Khổ bạt thiệp thương thay Tam Tạng,
Lao lộ đồ cảm bấy Ngộ Không.
Khe Sầu Ưng sâu thẳm khôn cùng,
Không thuyền chích lấy chi mà độ?

Lại nói:

Âu phải liều công mỗ,
Dụng khô mộc làm bè.
Để phòng khi hoành độ sầu khê,
Vi thiện dễ cầu ai biết.

Tam Tạng:

Nhương nhương đòi ngàn nước biếc,
Mênh mênh một dải dòng canh.
Đây vốn không ngư tử bên gành,
Đã khó biết cậy ai tế độ.
(Hành Giả đi tìm thử).

Hành Giả:

Đoái bên ngàn lấp ló,
Kia chăng thấy cái bè?
Phiền thổ nhân đưa mỗ qua khe,
Kẻo đây vốn không người hoành độ.

Thần suối:

Tôi chẳng phải độ chu ngư phủ,
Người đã phiền thời mỗ cũng đưa.
(Có gió thổi.)
Mới đó đà qua khỏi Sầu khê,
Hành Giả khá lấy tiền đáp lễ.

Thần suối:

Miễn đưa người làm nghĩa,
Vốn không luận bạc tiền.
Xin người tiến bộ Tây thiên,
Đặng mỗ lui về Đông lộ.

Hành Giả:

Sư phụ còn chưa rõ,
Gã vốn thiệt giản thần.
Lẽ thời ứng tiếp thập phần,
Đâu dám lấy tiền sư phụ!

Tam Tạng:

Bầy hạc nọ bay về đèo cũ,
Vầng ô kia lặn lại non xưa.
Hành Giả ngươi tìm chốn nghỉ ngơi,
Ngày mai sẽ trông (13) chừng thượng lộ.

Hành Giả:

Đoái trước mặt có tòa miếu vũ,
Kíp dời chơn tới đó nghỉ an.

Tam Tạng:

Ngoài xem thời ba chữ rõ ràng,
Đây vốn thiệt từ đường lý xã.
Vào tiền đường xem thử,
Hoặc có kẻ nào chăng?
(Có lão gia ra chào).

Lão phu:

Lão phu hữu thất viễn nghinh,
Cảm thỉnh đồng lai an tọa.

Tam Tạng:

Thử miếu hà vi miếu xã,
Viễn phương vị thức cao danh?

Lão phu:

Xứ đây là Cáp Tất quốc thành,
Miếu nọ thiệt thờ thần thổ cốc.
Lão mại dám thưa sư phụ,
Sở cư hà xứ tiên hương?

Tam Tạng:

Tôi vốn người (9) Đông thổ Đại Đường,
Phụng vương mạng Tây thiên bái Phật.
Lộ thượng thích phùng nhựt nhập,
Viễn lai tá túc nhứt tiêu.

Lão phu:

Lão đây thời dã vị thô hào,
Tiểu đồng khả tương lai khoản đãi.

Tam Tạng:

Cổ viết đa nghi cập vật,
Hà câu đơn thực đậu canh?

Lão phu:

Sang Tây phương thiên lý lộ trình,
Ngựa sư phụ tôi xin xem thử?

Lại nói:

Giá thị Hoa Lưu, Kỳ, Ký,
Duyên hà yên bí tịnh vô?

Hành Giả:

Sự vốn hữu duyên do,
Tôi xin trình sở dĩ.
Vả ngựa trước khấu kiều câu bị,
Rồng Ưng Khê nó đã nuốt đi.
Phật Quan Âm bắt tội rồng kia,
Bèn biến đó lại làm con ngựa.
Vì vậy mới không yên bí,
Lộ đồ dễ sắm đặng nào?

Lão phu:

Có nghe mới biết âm hao,
Chẳng hỏi sao tường sở dĩ.
Tôi vốn có mã đồ câu bị,
Dâng Tôn sư đỡ sức lộ đồ.

Tam Tạng:

Ngại chủ nhân nhiều nỗi gieo đào,
Tôi khôn biết thuở nào trả lý.

Lão phu:

Lộ tượng thiểu tư nhứt tí,
Tôn sư hà kiến khổ từ.

Tam Tạng:

Xem bàn (?) đông bóng ác cao giơ,
Tạ thí chủ đặng ta thượng lộ.
(Tam Tạng quay đầu nhìn, không thấy lão già).

Lại nói:

Chú đưa mỗ gẫm âu mới đó,
Đoái mắt nhìn sao đã mất đây?
Miếu vũ đã biến hóa bao giờ,
Còn một chỗ đất không sạch sẽ.
(Lão già ở trên trời.)

Lão phu:

Thánh tăng hưu quái ý,
Ngã Thổ địa Lạc già.
Vâng Quan Âm Bồ Tát dạy ta,
Đem yên bí tứ lai Tam Tạng.
Gã tua khá hết lòng tây vãng,
Sau mới toan về đặng Đông phương.

Tam Tạng:

Văn ngôn bất giác kinh hoàng,
Nhục nhãn đã cam thất lễ.
Đài đầu bách bái, bách bái,
Đa tạ hồng ân, hồng ân.

Lại nói:

Giữa đạo đồ rày gặp sơ xuân,
Chìu cảnh vật đồng ngâm một luật.

Tam Tạng, Hành Giả cùng ngâm:

Nhứt dương sơ động hữu tuyên hòa,
Bách hủy cao đê đấu ỷ la.
Yểm cựu sơn lâm phô thúy sắc,
Nghinh tân thảo một phát thanh(10) nha.
Mai anh lạc tận, hàn ngưu khứ,
Liễu nhãn sơ khai, phi yến qua.
Kính chúc Nam trào Hoàng ngự vũ,
Thừa thiên hôn hỗ hưởng tam đa.

Hết hồi 15 của tuồng Tây Du

____________________

[1] HTC: than van.