NAM  KỲ  LỤC  TỈNH
NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ - VĂN HÓA - VĂN HỌC MIỀN NAM
CHỦ TRƯƠNG
_____

Nam Kỳ Lục Tỉnh là diễn đàn của các nhà biên khảo và sáng tác không phân biệt sinh quán viết về Nam Kỳ Lục Tỉnh. Địa danh Nam Kỳ Lục Tỉnh mà vua Minh Mạng đã đặt tên từ năm 1834 và sau đó chính quyền Pháp phân chia thành 21 tỉnh là vùng đất mới trải dài từ miền nam Phan Thiết đến mũi Cà Mau, được mang nhiều sắc thái đặc thù mà từ văn hóa đến tâm tình lẫn tâm tính có nhiều khác biệt với tổ tiên của họ ở Đàng Ngoài.

Ước vọng của trang mạng NKLT là mong được người viết ngoài nước và trong nước đóng góp trong tinh thần đối thoại và công chính để nguồn tài liệu về vùng đất mới nầy được phong phú, đáp ứng nhu cầu thông tin và biên khảo về chủ đề Nam Kỳ, đất nước và con người.

NKLT cũng sẽ lần lượt cho đăng tải một số tài liệu, tác phẩm xưa đã tuyệt bản hay khó tìm được trên thị trường.

Tài liệu viết về các biến cố lịch sử cận đại (Đệ 1 và Đệ 2 Cộng Hòa) có tính cách đa dạng và dị biệt. Để cung cấp thông tin và dữ kiện cho độc giả và các nhà nghiên cứu, NKLT chọn đăng một số tài liệu nầy.

Tuy nhóm chủ trương đảm nhiệm việc chọn lựa sơ khảo các bài viết thích ứng với chủ đề, trách nhiệm sau cùng về nội dung vẫn thuộc về tác giả. Do đó, các bài viết đăng trên trang mạng NKLT không nhất thiết phản ảnh quan điểm cũng như sự đồng thuận về nội dung của nhóm chủ trương.

Ngoài ra, với mục đích phục vụ độc giả một cách vô vị lợi, chúng tôi cũng xin được ngỏ lời tri ân và cáo lỗi tác giả những bài viết trên các trang mạng hay sách báo và hình ảnh mà chúng tôi không thể liên lạc được để xin phép trích đăng. Trong trường hợp nầy, chúng tôi sẽ ghi chú xuất xứ.

Để giữ sự nhất quán trong cách trình bày và chủ trương của trang mạng, chúng tôi có thể thay đổi cách trình bày, nếu không có sự xác định trước của tác giả.

Bài vở, đóng góp ý kiến xin gởi về địa chỉ điện thư: namkyluctinh.org@gmail.com

_____________________

Nhóm chủ trương:

Cựu thành viên trong Nhóm chủ trương:

Với sự cộng tác đặc biệt của: Anh Thư - Cao Thoại Châu - Đào Anh Dũng - Đào Đức Nhuận - Dĩ An - Diên Nghị - Đinh Công Thanh (Thiện Mộc Lan) - Hồ Bạch Thảo - Hoàng Kim Oanh - Huỳnh Long Vân - Khương Hữu Điểu - Kiều Tấn - Lâm Hữu Tặng - Lâm Vĩnh Thế - Lê Công Lý - Lê Đại Anh Kiệt - Liên Quốc - Luân Hoán - Lữ Long Bình - LymHa - Mặc Nhân TVC - Mai Lý Cang - Mai Thanh Truyết - Ngô Thế Vinh - Ngự Thuyết - Nguyễn Chương - Nguyễn Hoạt - Nguyễn Hữu Phước - Nguyễn Kiến Thiết - Nguyên Lạc - Nguyên Nghĩa - Nguyễn Ngọc Luật - Nguyễn Như Hùng - Nguyễn Phúc An - Nguyễn Phúc Vĩnh Ba - Nguyễn Thị Cỏ May - Nguyễn Tuấn Huy - Nguyễn Văn Trần - Nguyễn Vĩnh Thượng - Phạm Anh Dũng - Phạm Cao Dương - Phạm Thái Bình - Phạm Tín An Ninh - Phạm Văn Duyệt - Phan Giang Sang - Phan Tấn Hải - Phùng Nhân - Phương Nguyên Loan - Quách Văn Hòa - Tạ Thanh Minh Khánh - Thái Công Tụng - Trần Anh Tuấn - Trần Đức Lai - Trần Huy Bích - Trần Mộng Lâm - Trần Mỹ Châu - Trần Nhật Vy - Trần Từ Mai - Trần Văn Chánh - Trần Văn Ngà - Triều Hoa Đại - Võ Phước Hiếu - Võ Trường Kỳ - Vương Kim Hùng

Chân thành tri ân, thương tiếc và tưởng nhớ các văn thi hữu đã quá vãng: Đàm Trung Pháp - Hồ Trường An - Nguyễn Phương - Nguyễn Tấn Nhì (Nhị Tấn) - Nguyễn Vĩnh Bảo - Trần Văn Nam


Saigon xưa: 1970

Tự do báo chí của miền Nam VN trước 1975 (Mặc Lâm đài RFA phổ biến ngày 1 tháng 11 năm 2015).





30-4: Cuộc vượt biển vĩ đại – Hành trình máu và nước mắt của dân tộc bị bức tử

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước Việt Nam bước vào một chương bi kịch mới – không phải của đoàn tụ, hòa hợp, hay hòa bình, mà là bản án tử hình tập thể. Những trại “học tập cải tạo” ngập mùi chết chóc mọc như nấm - hàng triệu thân phận bị đày đọa trong chính quê hương mình. Từ trong tận cùng tuyệt vọng, người dân miền Nam đã lựa chọn một con đường không có lối về: vượt biển, vượt biên – đánh đổi tất cả để tìm lại tự do.

Chưa từng có một quốc gia nào trong thời đại hiện đại chứng kiến hàng triệu công dân liều chết ra đi như thế. Từ năm 1975 đến giữa thập niên 1990, theo các báo cáo của Liên Hiệp Quốc và các tổ chức nhân đạo, có hơn 2 triệu người Việt Nam tìm cách vượt biển. Và trong số đó, ít nhất 250.000 người đã chết – chết vì đói khát, vì bão tố, vì máy tàu chết máy, vì bị hải tặc giết hại, hoặc vì trôi dạt vô vọng giữa đại dương không bến bờ. Họ là những người dân vô tội, là học sinh, sinh viên, là thầy cô, bác sĩ, binh lính, công chức, những con người từng sống giữa phố xá văn minh của Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng… Giờ đây chui rúc dưới khoang tàu đánh cá chật hẹp, hôi hám, rỉ nước, không một bảo đảm, không một cứu hộ, chỉ mang theo một niềm hy vọng mong manh: thoát khỏi bóng tối cộng sản.

Trên những chuyến tàu định mệnh, thảm kịch không chỉ đến từ thiên nhiên mà còn từ lòng người. Hải tặc Thái Lan và Mã Lai đã trở thành ác quỷ đội lốt người. Nhiều tàu người Việt bị chúng đuổi theo, giết đàn ông, bắt cóc hoặc hãm hiếp phụ nữ ngay trước mắt cha mẹ, chồng con. Có em bé mới 12 tuổi bị cưỡng hiếp đến chết. Có bà mẹ bị đánh gãy tay khi van xin tha mạng cho con gái. Có người phụ nữ sau khi bị làm nhục đã nhảy xuống biển tự vẫn.

Một số câu chuyện vẫn còn khắc sâu vào trí nhớ cộng đồng người Việt hải ngoại. Gia đình anh Lê Văn P. ở Vũng Tàu – gồm 6 người – lên ghe nhỏ vượt biển năm 1979. Khi tàu chết máy giữa biển Đông, không còn lương thực, mẹ anh đã cắt cổ tay mình pha với nước biển cho con uống đỡ khát. Cả 6 người chết vì mất nước, xác dạt vào bờ Mã Lai 12 ngày sau.

Hay chuyến tàu tại Rạch Giá năm 1980, bị hải tặc cướp ba lần. Toàn bộ đàn ông bị ném xuống biển. Những cô gái từ 10 đến 20 tuổi bị hãm hiếp, sau đó bị giết hoặc mất tích. Duy chỉ một cô bé tên My sống sót nhờ trốn được trong hầm máy suốt 5 ngày, đến khi được tàu buôn Đức cứu. Có người lính Biệt Động Quân, sau khi ra tù cải tạo, cùng vợ con vượt biển năm 1982. Ông sống sót nhưng mất vợ và hai con gái khi tàu lật gần đảo Palawan. Mỗi năm, ông vẫn đến bờ biển San Diego đốt nhang cho “nấm mộ vô hình” của người thân.

Điều đáng đau đớn hơn cả là, trong khi những kẻ thắng trận vỗ ngực xưng danh “giải phóng”, thì những người thua trận lại bị xóa tên khỏi quê hương. Họ không còn hộ khẩu, không còn việc làm, không được học hành, bị theo dõi, bị giam cầm. Từ thành thị đến thôn quê, đâu đâu cũng là nỗi kinh hoàng của “kiểm tra lý lịch”, của “sổ đen chế độ cũ”. Vượt biển – là tiếng nói cuối cùng của một dân tộc bị đẩy đến đường cùng. Một cuộc di cư mà chính Henry Kissinger – người ký Hiệp định Paris 1973, từng lạnh lùng thừa nhận: “Tôi không bao giờ nghĩ là người Việt Nam lại muốn rời bỏ đất nước đến thế.” Nhưng ông không hiểu – chính ông và những trò chơi địa chính trị lạnh lùng đã ném hàng triệu người vào địa ngục.

Ngày nay, hàng triệu người Việt tị nạn cộng sản đã xây dựng lại đời mình trên đất mới – từ Mỹ, Úc, Pháp, Canada đến Đức, Na Uy… Họ là bác sĩ, giáo sư, doanh nhân, nghệ sĩ, là thế hệ thứ hai vươn lên từ đau thương. Nhưng vết sẹo trong tâm hồn cha ông họ vẫn còn đó – như nỗi nhức nhối không bao giờ lành. Bia mộ không tên dưới đáy biển Đông. Những đứa trẻ chết đói trong tay mẹ. Người vợ ôm xác chồng giữa mênh mông sóng nước. Những bóng người trong đêm tối bơi qua sông biên giới Campuchia, bị lính cộng sản bắn gục trong im lặng.

Đó là lịch sử – không ai được quyền lãng quên. Cuộc vượt biên vĩ đại sau 1975 không chỉ là một cuộc di cư – đó là bản cáo trạng hùng hồn nhất đối với một chế độ đã khiến hàng triệu người dân phải trốn chạy chính quê hương mình. Và dù những con tàu đã chìm, những xác người đã mục, những tiếng kêu cứu đã tắt – ký ức ấy vẫn sống mãi. Trong lòng biển. Trong trái tim những người còn sống. Và trong lời nguyền lịch sử chưa bao giờ nguôi.

April 30 – The Great Exodus by Sea: A Nation’s Journey Through Blood and Tears.

After April 30, 1975, Vietnam entered a new and harrowing chapter of its history – not one of reunion, reconciliation, or peace, but of mass death sentences, of “reeducation camps” reeking of despair and death, and of millions cast into exile in their own homeland. From the depths of hopelessness, the people of South Vietnam chose a path with no return: fleeing by land and sea-sacrificing everything for one desperate hope: freedom.

Never before in modern history had a nation witnessed millions of its own citizens risking death to escape their country. From 1975 to the mid-1990s, according to reports by the United Nations and humanitarian organizations, over 2 million Vietnamese attempted to flee by sea. At least 250,000 perished – lost to hunger, thirst, storms, engine failure, pirate attacks, or simply vanishing into the vast, indifferent ocean. These were not criminals or deserters – they were students, doctors, teachers, civil servants, soldiers, mothers and fathers – people who once walked the civilized streets of Saigon, Huế, and Đà Nẵng. Now they huddled below deck in leaking fishing boats, suffocating in stench and fear, with no guarantees, no rescues – only the faint glimmer of escaping the communist abyss.

On these ill-fated voyages, the tragedy came not only from nature, but from the cruelty of mankind. Thai and Malaysian pirates became devils in human form. Countless Vietnamese boats were chased, their men slaughtered, their women kidnapped or raped before the helpless eyes of fathers, husbands, and children. A 12-year-old girl was raped to death. A mother had her arms broken begging for mercy for her daughter. One woman, after being brutalized, leapt into the sea to end her torment.

These horrors are carved into the memory of the overseas Vietnamese diaspora. One such story: The Lê Văn P. family from Vũng Tàu – six people – set off in a small boat in 1979. When the engine died and food ran out in the South China Sea, the mother slit her own wrist, mixing blood with seawater to quench her children’s thirst. All six perished. Their bodies washed ashore in Malaysia twelve days later.

In another, a boat from Rạch Giá in 1980 was attacked three times by pirates. All the men were thrown overboard. Girls aged 10 to 20 were raped and then murdered or vanished. Only one survivor – a girl named My – hid in the engine hold for five days before being rescued by a German merchant ship.

Or the Airborne Ranger veteran who, after years in a reeducation camp, escaped by sea with his wife and two daughters in 1982. He survived. They did not. The boat capsized near Palawan. Every year, he burns incense on the shores of San Diego – for the “nameless grave” that is now the sea.

What’s even more heartbreaking: while the victors beat their chests and proclaimed “liberation,” the vanquished were erased from the land of their birth. No household registration. No jobs. No education. Only surveillance, discrimination, and prison. From the cities to the countryside, the fear of “background checks,” of “blacklists” haunted every former soldier and public servant. Fleeing became the final scream of a people cornered into silence.

Even Henry Kissinger – the architect of the 1973 Paris Accords – coldly admitted: “I never thought the Vietnamese would want to leave their country so badly.” But he didn’t understand – it was he, and the cold-hearted games of geopolitics, who condemned millions to hell.

Today, those who survived the communist exodus have rebuilt their lives across the globe – from America, Australia, France, and Canada to Germany and Norway. They are now doctors, professors, entrepreneurs, artists. A second generation rises from the ashes. But the wounds in the souls of their parents remain – raw and unhealed. Tombstones without names lie at the bottom of the South China Sea. Starving infants died in the arms of their mothers. Wives clutched the bodies of their husbands in the endless, silent waves. Shadows of fugitives swam across the Cambodian border at night, only to be gunned down by communist guards with no witness.

This is history – not a tale to be forgotten.

The great exodus after 1975 was not merely a migration. It was a damning indictment of a regime that drove its people to flee the very soil they once called home. And though the boats have sunk, the bodies have rotted, and the screams for help have faded into silence – the memory lives on.

In the ocean’s depths.

In the hearts of the living.

And in the eternal curse of history that will never be silenced.

── ● ──

THUY TRANG Nguyen
27-3-2025

Nguồn: 30-4: Cuộc vượt biển vĩ đại – Hành trình máu và nước mắt của dân tộc bị bức tử.









Việt Nam 1945

Sàigòn, tháng 6 năm 1930

Trường Tiểu và Trung Học Trước 1975

Sự thật về trại tù Phú Quốc và trao trả tù binh tại Lộc Ninh

Những chuyện “Độc Lạ” sau 1975 (ai cũng biết!)
BÀI MỚI CẬP NHẬT
_____
  1. Ai ăn cắp nỏ thần? Thái Bá Tân
  2. Gia tộc Minh Tơ sáu đời giữ hồn tuồng cổ Sài Gòn. Mai Nhật
  3. 50 năm Đại Học lạc hậu. Lâm Văn Bé
  4. Tị Nạn và Việt Kiều 50 năm sau chiến tranh. Lâm Văn Bé
  5. Xã hội người Việt ở hải ngoại thu nhỏ sau 50 năm. Lâm Văn Bé
  6. Cải lương qua hơn 100 năm ở Sài Gòn - TP HCM. Hà Linh Dung
  7. Ba lần đổi tiền. Hà Minh Thảo
  8. Những ân tình nhớ đời. Trần Văn Ngà
  9. Bài ca vọng cổ. Nhiều tác giả
  10. Chữ húy Việt Nam qua các triều đại. Ngô Đức Thọ
  11. Tình oan. Nguyễn Văn Sâm
  12. Giáo sư Lê Thành Khôi từ trần ngày 28-1-2025, thọ 102 tuổi. Phạm Trọng Chánh
  13. Bà Thũng ở chợ Cây Điệp. Nguyễn Văn Sâm
  14. Lễ phát giải văn chương toàn quốc năm 1960-1961. Nguiễn Ngu Í
  15. Đặc san Cỏ Thơm Xuân Ât Tỵ 2025. Báo Cỏ Thơm
  16. Bản đờn tranh và bài ca (1905). Phụng Hoàng Sang
  17. Bản đờn tranh và bài ca (1909). Phụng Hoàng Sang
  18. Bản đờn tranh và bài ca (1910). Phụng Hoàng Sang
  19. Viện Đại Học Cao Đài Tây Ninh (1971-1975): Nhân sao tôi được làm Phụ Tá Viện Trưởng. Nguyễn Văn Sâm
  20. Khánh Trường (1948-2024) – người nhiều tài văn hóa và thích đứng đầu gió. Nguyễn Văn Sâm
  21. Bộ luật lao động (1952). Quốc gia Việt Nam
  22. Hai nữ sĩ lừng danh thiên hạ. Hùng Anh
  23. “Nghệ sĩ nhân dân – tiến sĩ” Bạch Tuyết. Tám Vạn
  24. Ghé lại chốn chào đời. Nguyễn Văn Sâm
  25. Cách phân biệt dấu hỏi, dấu ngã trong Tiếng Việt. Lê Minh Trường
  26. Giới thiệu tuồng hát bội nhiều hồi thế kỷ 18 chưa từng được công bố: “Đường chinh Tây”. Nguyễn Văn Sâm
  27. Những cái chết tức tưởi của nhà văn, chuyện bây giờ mới kể (1). Thái Doãn Hiểu
  28. Những cái chết tức tưởi của nhà văn, chuyện bây giờ mới kể (2). Thái Doãn Hiểu
  29. Những cái chết tức tưởi của nhà văn, chuyện bây giờ mới kể (3). Thái Doãn Hiểu
  30. Giới thiệu tuồng “Kim Long-Xích Phượng”. Ngự Thuyết
  31. ‘Kim Long Xích Phượng,’ bản tuồng hát bội cổ chữ Nôm, ra mắt tại Little Saigon. Văn Lan
  32. Nữ tiến sĩ là NSND, từng lấy chồng tỷ phú: “Nghệ sĩ mà học vấn không bằng sự nổi tiếng là một bi kịch”. Tùng Ninh
  33. Phía NSND Bạch Tuyết nói gì trước thông tin ‘không có bằng tiến sĩ thật’? Văn Hà
  34. Nghệ sĩ Bạch Tuyết có bằng tiến sĩ hay chỉ là chứng nhận khen thưởng của RADA? Trần Huỳnh - Hoài Phương
  35. Sự thật về liệt sĩ Nguyễn văn Bé (Hy sinh năm 1966 - Từ trần năm 2002). VietnamSaigon75
  36. Văn Hóa và Giáo Dục miền nam Việt Nam đi về đâu? (eBook) Thu Giang Nguyễn Duy Cần
  37. Vì sao triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa mãi trường tồn? RFA
  38. Nghề Thầy. Nguyễn Văn Sâm
  39. Về Trịnh Công Sơn. Nguyễn Thị Hoàng
  40. Giáo sư Võ Tòng Xuân (1940 – 2024): nhà khoa học ‘chuyển giao’ tiêu biểu. Nguyễn Văn Tuấn
  41. NSND Viễn Châu: Gã si tình nặng nghiệp cầm ca. NSND Viễn Châu
  42. Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Khi Diệu Hiền “trả thù”. NSND Viễn Châu
  43. Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Kho báu đầu đời. NSND Viễn Châu
  44. Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Kim Ngọc - “Mai Đình của tôi”. NSND Viễn Châu
  45. Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Lăng xê Thanh Nga. NSND Viễn Châu
  46. Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Lệ Thủy - Đào chánh ngoại lệ. NSND Viễn Châu
  47. Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Mối tình Út Bạch Lan - Thành Được. NSND Viễn Châu
  48. Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Nửa thế kỷ ân tình. NSND Viễn Châu
  49. Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Tri ngộ “Tư Ếch” Văn Hường. NSND Viễn Châu
  50. Gã si tình nặng nghiệp cầm ca: Út Trà Ôn và Tình anh bán chiếu. NSND Viễn Châu
  51. Tây Du Ký hồi 68. Nguyễn Văn Sâm phiên âm
  52. Sài Gòn xưa: Những món ngon tuyệt vời của ký ức. Phạm Công Luận
  53. Giáo sư Nguyễn Thế Anh và Ban Sử Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Trần Anh Tuấn
  54. Cải cách ruộng đất miền Bắc và cải cách điền địa miền Nam. Nguyễn Văn Trần
  55. Bậu và Qua. Nguyễn Văn Trần
  56. Nguyễn Đình Toàn: ‘Yêu người đã bỏ đời vui’. Kalynh Ngô
  57. Ghi nhận về Hồ Biểu Chánh. Huỳnh Phan Anh
  58. Về tập thơ Nữ Tắc của Trương Vĩnh Ký. Nguyễn Văn Sâm
  59. Huấn Nữ Ca. (eBook) Đặng Huỳnh Trung
  60. Đại lộ Lê Lợi năm xưa. Mỹ Phước Nguyễn Thanh
  61. Thử tìm vài ý nghĩa trong Độc Thoại Trắng của Âu Thị Phục An. Nguyễn Văn Sâm
  62. Lịch Sử Việt Nam (trọn bộ 15 tập). (eBook) Viện Sử Học
  63. Bàn về chữ “Giá” trong một bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khuyết danh
  64. Sự đối lập và sự tương đồng giữa đạo Cao Đài và đạo Hòa Hảo. Đặng Thế Đại
  65. Cải tiến & Cổ truyền. Bùi Trọng Hiền
  66. Giáo sư Trần Ngọc Dụng: “Nhiều người Việt cứ nghĩ mình giỏi tiếng Việt”. Sean Le TV
  67. Truyện thơ Thạch Sanh Lý Thông, tác phẩm của lưu dân vào Nam chống lại sự sợ hãi thiên nhiên nơi vùng đất mới. Nguyễn Văn Sâm
  68. Vàng rơi nên tiếc: Tuồng hát bội vô danh của miền Nam. Nguyễn Văn Sâm
  69. Kỷ niệm với soạn giả - NSND Viễn Châu. Đăng Huỳnh
  70. Cái cười dưới chế độ Cộng Sản. Võ Phiến
  71. Tiểu Tử, nhà văn gìn giữ hồn quê Tây Ninh. Vương Trùng Dương
  72. Suy nghĩ từ chuyện con kinh huyền thoại. Bùi Chí Vinh
  73. Câu hát huê tình đối đáp ở Nam Kỳ. Nguyễn Kiến Thiết
  74. Nghiên cứu kịch bản tuồng Nam bộ trước 1945. Nguyễn Thị Huyền Trang
  75. Mưa trên Poncho. Lê Văn Phúc
  76. Đến nhà cổ Vương Hồng Sển sau quyết định cưỡng chế: Mưa dột, kèo nhà mối mọt, không còn cổ vật. Hoài Phương
  77. Xin giã từ đời. Nguyễn Văn Sâm
  78. Giới thiệu phim “My South Vietnam” - “Miền Nam Của Tôi”. Vương Trùng Dương
  79. Ông lão bán kem: “Đường đời dễ có mấy ai”. Lê Văn Hưởng
  80. Ngô Tất Tố. Thái Bá Tân
  81. Morceaux choisis d’auteurs annamites. Georges Cordier
  82. Đại Nam quấc âm tự vị A-L (1895). Hùinh Tịnh Của
  83. Đại Nam quấc âm tự vị M-X (1895). Hùinh Tịnh Của
  84. Bị chôn mà không chết. Đỗ Trung Quân
  85. Thoắt đã phiêu bồng. Nguyễn Văn Sâm
  86. May ra đứng gần. Đạt Giả
  87. Nét riêng đờn ca tài tử Bình Dương trong đờn ca tài tử Nam bộ. Thiên Lý
  88. Từ kỷ niệm xưa ở Petrus Ký... nhớ ơn các thầy cũ. Nguyễn Văn Sâm
  89. Thư đến kịp giờ. Người miền Nam (tức Nguyễn Văn Sâm)
  90. Căn nhà cổ xưa hơn 100 năm tuổi đẹp bậc nhất miền Tây. Huỳnh Biển
  91. Nam bộ không phải như những điều Bùi Xuân Đính viết. Nguyễn Thanh Lợi
  92. ‘Thám Xực Cái’ - ‘Con đường tham ăn’ ở đất Sài thành. Phạm Công Luận
  93. Chuyện một chiếc cầu đã gãy... 3 lần! Phạm Hoài Nhân
  94. Sinh hoạt và sức sống của đạo Cao Đài. Đặng Thế Đại
  95. Học viện cải lương: Chưa hay dù có nhiều điểm mới. Thanh Hiệp
  96. Hồ Chí Minh không phải là tác giả “Ngục Trung Nhật Ký”. Lê Hữu Mục
  97. Sư Minh Tuệ: Cuộc cách mạng thầm lặng 2024. Vũ Thế Ngọc
  98. Quan Âm Cứu Khổ Chân Kinh Tựa. Nguyễn Văn Sâm
  99. Giới thiệu Tuồng Kim Vân Kiều Nam Bộ! Nguyễn Văn Sâm
  100. Đại úy Nguyễn Hữu Luyện. Giao Chỉ - Vũ Văn Lộc
  101. ‘Học viện cải lương’ xin lỗi vụ tác quyền, NSND Hữu Quốc nói ‘cần tôn trọng’. Thạch Anh
  102. Điều gì xảy ra tại Học viện Cải lương? Ninh Lộc
  103. Từ Ngọc Minh đến Minh Ngọc – từ trong trang sách bước ra. Trần C. Trí
  104. Mỹ Tho bút ký. Trần Bạch Thu
  105. Kỷ yếu giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật 1970. Nhiều tác giả
  106. Kỷ niệm với anh Vĩnh Bảo tại Carbondale 1971. Trần Văn Khê
  107. Từ Ba Son đến Cao Thắng. Nguyễn Hoạt
  108. Chuyện ông Hồ Ngọc và người vợ lính ở Thủ Đức. Giao Chỉ, San Jose
  109. “Đánh tư sản” ở miền nam sau 1975. Nguyễn Dương
  110. Thông loại khóa trình. (eBook) Trương Vĩnh Ký
