Nguyễn Văn Sâm
Hậu Trần Minh Khố Chuối
Một khía cạnh của văn học Miền Nam: Thơ Hậu
Giới thiệu một Thơ Hậu:
HẬU TRẦN-MINH KHỐ CHUỐI
Soạn-giả: TAM-GIANG.
Nhà xuất bản Thuận Hòa, Chợ Lớn 1967
Thế kỷ 20 từ đầu cho tới cuối thập niên 60 ở Miền Nam có sự nở rộ của truyện thơ bình dân viết bằng Quốc Ngữ. Đó là một sự kéo dài của truyện thơ bình dân viết bằng chữ Nôm của hai thế kỷ trước đó trên toàn quốc. Gọi là truyện thơ bình dân vì văn chương mộc mạc, từ ngữ lắm chỗ vụng về nhiều thì là mà, lắm chữ đưa đẩy không cần thiết (chữ rày, chữ vân vi, chữ vậy thì chẳng hạn) và nhứt là không có điển cố - hay có mà rất ít-, trái lại có nhiều câu lạc vận hay thường bị cho vần ở chữ thứ tư. Đặc biệt về sự in ấn, loại nầy thường in bằng tập 16 trang với bìa một là tựa truyện kèm theo hình minh họa một cảnh trong truyện với hai câu thơ phụ đề, trang bìa bốn là danh sách ấn phẩm của cùng nhà xuất bản. Ba nhà xuất bản loại nầy là Phạm Văn Thình, Phạm Đình Khương và Thuận Hòa hoạt động từ thập niên 30 cho tới hết thập niên 60 của thế kỷ 20 ở vùng Chợ lớn sau nầy là một phần của Sàigòn.
Sự xuất hiện và suy tàn của loại truyện thơ nầy theo những bước sau:
1. Cuối thế kỷ 19 sang đầu 20, những nhà Nho phiên âm có sửa chữa một vài chữ, các truyện Nôm mà họ thấy cần phổ biến sang quốc ngữ. Đó là những đóng góp của Petrus Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Trương Minh Ký, Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc… Thời nầy chỉ là sự chuyển chữ viết từ hình thức xưa (Nôm) sang hình thái mới (Quốc ngữ) không có sự góp phần của người phiên âm về tư tưởng hay tài nghệ ở mặt văn chương. Chỉ có sự đóng góp công sức giới thiệu để bảo tồn những di sản văn hóa do tổ tiên lưu truyền lại mà thôi.
2. Hai thập niên sau đó là 10, và 20 thì có sự xuất hiện của những truyện thơ được viết thẳng bằng quốc ngữ. Đây là những đóng góp tim óc và văn học của người sáng tác. Có người thì viết bằng sự tưởng tượng của mình, như
Hồ Biểu Chánh với U Tình Lục, 1913. Có người thì dựa trên những truyện Tàu hay rút ra từ những truyện dài của Tàu nhưng chưa bao giờ đã có bản viết trước bằng chữ Nôm mà chỉ do họ gợi hứng từ truyện xưa để sáng tác. Đó là trường hợp của Trần Phong Sắc, Đặng Lễ Nghi…
3. Thập niên 30, 40 thì là sự lớn mạnh của hai thể loại trong hai giai đoạn nêu trên. Bây giờ không phải là thời đại của sự phiên âm với sự sửa chửa rụt rè nữa mà là sửa lại bổn cũ một cách ngang nhiên, nghĩa là từ bản phiên âm của giai đoạn 1 người ta sửa lại cho xuôi câu trọn ý, có khi thêm cả đoạn 4, hay 6 câu. Loại thứ hai là viết thẳng bằng quốc ngữ cũng đã xuất hiện nhiều hơn. Đây là thời của Nguyễn Văn Khỏe, Đặng Lễ Nghi, Nguyễn Bá Thời… của những người cộng tác với nhà in J. Viết hay nhà xuất bản Phạm Văn Thình.
4. Sau đó là thời của truyện thơ hậu. Người sáng tác cũng như người xuất bản giờ đây thấy tác phẩm sẽ dễ tiêu thụ hơn nếu có dính dáng đến tác phẩm đã xuất hiện trước đó. Có thể là một nhơn vật (như Thầy Viên là ông thầy bói giỏi như thần xuất hiện nhiều lần ở truyện thơ Nôm), có thể là con cái của nhơn vật. Vì hầu hết nhơn vật đều là hậu duệ của nhơn vật ở thơ chánh người ta bèn gọi loại thơ mới xuất hiện nầy là thơ hậu. Thơ hậu có nghĩa là thơ sau, tiếp theo thơ đã có trước mà tôi gọi là thơ chánh. Thiệt ra thơ hậu chỉ là một sự bắt chước tuồng hậu, chỉ tiếc là tuồng hậu chỉ xuất hiện một lần ở tuồng San Hậu và Tiểu San Hậu mà thôi, nếu có tuồng hậu thì đã dính vô tuồng chánh rồi. (Đó là trường hợp của tuồng Trần Trá Hôn).
5. Cuối thập niên 60 thì cả truyện thơ bình dân và thơ hậu đều suy tàn và biến mất. Buôn bán không được, những nhà xuất bản loại nầy đóng cữa. Độc giả không thích truyện thơ nữa mà thích tiểu thuyết văn xuôi của Dương Hà, Ngọc Sơn, Dương Trữ La, Tùng Long, Ngọc Linh, Hồ Biểu Chánh trước đó và những người viết thuộc nhóm Sáng Tạo và nhóm Tiểu Thuyết Mới sau nầy viết về những đề tài thành phố và chiến tranh…
⁂
Thơ hậu quốc ngữ nhiều lắm, hầu như tất cả truyện thơ đều có thơ hậu. Thơ hậu mặc dầu trên nguyên tắc là tiếp theo thơ chánh nhưng không nhứt thiết người viết thơ hậu phải là người sửa lại bổn cũ để in thơ chánh. Thí dụ Thơ Trần Minh Khố Chuối người tân soạn là Nguyễn Văn Khỏe, còn người viết thơ hậu là Tam Giang. Nhiều khi một thơ chánh có hai thơ hậu cũng chẳng sao. (Trường hợp thơ Lục Vân Tiên).
Thời nầy những người viết thơ hậu nhiều là Nguyễn Văn Khỏe, Nguyễn Bá Thời, Lê Ngọc Mai…
Vài thơ hậu ta còn được biết:
- Hậu Trần Minh Tam Giang
- Hậu Chàng Nhái Nguyễn Văn Khỏe
- Hậu Dương Ngọc Nguyễn Văn Khỏe
- Hậu Trò Đông Đinh Công Thống
- Hậu Ngọc Cam Đinh Công Thống
- Hậu Vân Tiên 1. Trần Phong Sắc 2. ?
- Hậu Nàng Út Nguyễn Bá Thời
- Hậu Tống Tử Vưu Nguyễn Bá Thời
- Hậu Lâm Sanh Nguyễn Bá Thời
- Hậu Nam Kinh Lê Ngọc Mai
- Hậu Con Cám Lê Ngọc Mai
- Hậu Thạch Sanh ?
- Hậu Phạm Công Cúc Hoa ?
- Hậu Thoại Khanh ?
- Hậu Bạch Viên ?
- Hậu Chàng Nhái ?
Những dấu hỏi là biểu hiệu của sự mất mác tài liệu mà đến nay chúng tôi vẫn chưa tìm được. (Ai đó cho xin thì cảm ơn vô cùng.)
Nói chung thơ hậu có đặc tính sau:
1. Cấu tạo cũng giống giống như thơ chánh, vẫn là trung bị nạn, nịnh thắng lớn rồi qua thời gian nịnh thua to mất mạng hay bị đày, trung thắng thế xử phạt hay thưởng ban.
Ở thơ hậu Trần Minh thì là gia đình hai ông quan trong triều bị ép bức phải từ quan, con cái đứa thì bỏ vô rừng đốn củi kiếm ăn tối ngủ nhờ miếu cổ, đứa thì lưu lạc bị cướp bắt lên bắt xuống, giam cầm đánh khảo nhưng cuối cùng rồi thì cũng yên, kẻ gây họa bị bắt, người bị nạn thành công trở về.
2. Tiết nghĩa của nhân vật chánh luôn luôn được giữ vẹn. Ở thơ hậu Trần Minh thì là tiết nghĩa của nàng Xuân Nguyệt quyết giữ vẹn lời hứa hôn của cha gã cô cho một người mà mình chưa biết mặt chỉ biết tên là Trần Hà, dầu cho gươm kề cổ, dầu cho roi vọt nát da thịt cũng không chịu thay đổi, quyết giữ lời hứa của cha mà cô coi như duyên trời đã định cho mình…
3. Dùng rất nhiều từ đặc trưng của Miền Nam. Ở thơ Hậu Trần Minh ta có thể thấy : lanh quanh, trên tay (tức trên quyền), dã dượi, trễ tràng, bảng lảng bơ lơ, rậm rì, mắt híp mi cong, giây gàn, sỏi cấn, đá lăn, chạy băng, nói ra nói vào, thối chức, hú hí, vơ vét bốn bên ba bề, sự thật tỷ tê, bi bô chuyện trò, cười nói bi bô, ngóng đất trông trời, đượm đà, khấp khểnh bôn ba, đứa đứa bơ phờ, đôi mắt lờ đờ thâu canh, cho tao nhấm chút, lũ liệt, tìm túi lần rờ, đêm ngày kéo rốc, pháo nổ ành ành, giáo gươn lũ liệt, đương sức hung hăng, mắt chẹt, mệt nhừ, lăng xăng rộn ràng, vướng phải dưới chân dây chằng, nổi trận cam qua, phát pháo kéo ra bời bời…
4. Có nhiều sơ hở trong câu chuyện hay trong chi tiết. Ở Hậu Trần Minh thì là:
- Thái Sư trong triều lập một đảng cướp rất lớn, bắt người cướp của, quân sĩ rất nhiều có thể đánh triều đình xất bất sang bang mà trước đó không ai biết gì hết.
- Trong một nước được ca tụng là Triều đình pháp luật chăm lo/ Mưa hòa gió thuận không lo đói nghèo vậy mà có đảng cướp ngang nhiên bắt kẻ cô thế, giết người yếu đuối, có người nghèo khó làm ngư phủ sống trên sông, có kẻ làm tiều phu ngủ nhờ miếu thần....
- Ngọn giáo có thể chặt địch thủ bay đầu: Liền bị một giáo đầu bay lên thành.(?)
5. Thời đại của câu chuyện trong thơ hậu vì theo thời đại của thơ chánh nên hầu hết đều xảy ra trong triều đình, với nhơn vật văn võ thao lược, với vua cha, công chúa và các quan Thái sư, Đô Đốc …
⁂
Tuy không phải là những kiệt tác văn chương – vì tác giả muốn như vậy để tác phẩm của họ thấm sâu vào tâm não của quần chúng- nhưng truyện thơ bình dân Miền Nam và thơ hậu đã làm tròn được giai trò giải trí và giáo dục cho người dân ở các vùng dân cư mà loại thơ nầy tới nơi. Những người đàn bà từ trong đầm, trong trảng, trong xẽo xa xôi hẻo lánh một sớm theo ghe, theo đò đến tiệm tạp hóa ở chợ thế nào cũng đem về một xấp truyện thơ mua cho gia đình mình hay giùm mua cho bà con chòm xóm. Trên đường ghe xuôi về thế nào người trên ghe cũng ê a hết một hai cuốn, nếu có đứa nhỏ đi theo thì sự tiêu thụ cốt truyện càng mau lẹ hơn.
Kết quả là người bình dân nghèo khổ ít học cũng biết một số truyện thơ, thuộc lòng những câu hay ho và hiểu điều hay lẽ phải, hiểu lẽ nhơn quả của câu thiện ác đáo đầu chung hữu báo, thích khái niệm tiền tài như phấn thổ, nhơn nghĩa tựa thiên kim.
Người Miền Nam bình dị, chơn chất, hiếu khách, rộng lòng, ít tính toán so đo chắc chắn là nhờ phần nào những quyển thơ bình dân rẽ tiền, giá mỗi cuốn chỉ có hai đồng bạc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam! Và chùm thơ hậu của nó nữa, đứng kế bên cạnh để kiện toàn những điều mà thơ chánh chưa làm được.
Một lần, cách nay 2 thập niên, nghe một người bạn cao niên thích đề cao văn chương bác học nói với tôi thơ hậu là thứ ‘tào lao’ tôi đã thấy có gì không ổn. Vâng, thơ hậu như một cái chái rơm cất dựa kề căn nhà lá truyện thơ chánh, cả hai so với nhà lầu cao từng là truyện thơ Nôm bác học thì tào lao thiệt tình, nhưng tào lao đây không phải là thứ để liệng vô thùng rác mà là một thứ từng có ích cho dân tộc cần được nâng niu, một thời chúng đã sưởi ấm tình cảm cho biết bao người ở chốn xa xôi, đã là lời dạy đạo đức mà người được dạy đã thấm vào tâm thức sâu kiểu mưa dầm ướt đất một cách toại nguyện biết bao nhiêu thế hệ rồi, những kết quả tốt đẹp đó truyền chuyển tới bây giờ vẫn còn.
Thơ hậu và truyện thơ bình dân quí lắm chớ! Quí vô vàn!