Phú Quốc không xa

Xa nhất về phía tâyViệt Nam có một nhóm đảo mà ngườiphương Tây gọi là trân châu của Đông Nam Á. Phú Quốc như tên gọilà một dãy đất lớn, còn hai nhóm đảophụ cận cũng thuộc phạm vi hành chánh PhúQuốc, đó là quầnđảo An Thới và Thổ Châu. Những đảođẹp giàu, không thiếu yếu tố để pháttriển. Quần đảo An Thới với vẻđẹp trữ tình, rất thích hợp cho du khách đếnviếng. Quần đảo Thổ Châu xa tít mù giữatrùng khơi, sừng sững dáng đứng Việt Nam, córất nhiều cảnh đẹp và di tích lịch sử.

Đây là vùng biên cươngtrùng dương sóng gió, nên người dân có một phongcách phóng khoáng, ngang tàng của vùng trời biển bao la. Tâmhồn họ mở rộng và dữ dội của kẻ“đứng trên đầu sóng ngọn gió”, ý chí kiênquyết, thông minh khắc phục thiên nhiên, vượt lênmọi khó khăn, gian khổ để tạo nên mộtmôi trường, cuộc sống mới ở một chântrời, góc biển mới.

Những dải núi hoang vu,những hòn đảo trơ lạnh, những khu rừngrậm rạp dưới sức lao động của conngười, các đảo khơi đã trở thànhnhững vườn tiêu xanh tươi, những hàngdừa mát rượi, những liếp sầu riêng thơmphức. Những bãi cát vàng hoang phế, cây cỏ um tùmđã trở thành những xóm thôn yên ả, nhữngtriền núi cằn cỗi khô khan trở thành nhữngvườn cây ăn trái xum xuê, mượt mà; nhữngcửa sông chập chùng ghềnh thác đã trở thànhnhững khu chợ sầm uất, những bến cảngđông vui tấp nập tàu thuyền...

Đến Phú Quốc, Thổ Châu ta không thể không nhậnthấy những ánh mắt hãnh diện, những nụcười đầy tin tưởng của những conngười góc biển chân trời. Họ mang tronghuyết quản dòng máu phiêu lưu, quyết chí củamột dân tộc khai sơn phá thạch, đưa biên giớiquốc gia đến tận nơi đây, và tinh thầnmở nước, giữ nước kiên cườngbất khuất.

Đối với dânđất liền, tên Phú Quốc không mấy gì xa lạ,vì người ta liên tưởng đến nhữngthổ sản trứ danh có tầm cỡ thế giới:tiêu Phú Quốc, nước mắm Phú Quốc. Nhưngnhiều năm trước đây có rất ít ngườiđặt chân đến khắp các đảo nầy. Mặcdù đó là một vùng giàu có bao la, biết bao tài nguyên thiênnhiên dành sẵn cho ta từ trên đỉnh cao của núixuống đến quanh triền, vào các khu rừng nguyênthủy, ở trên những bãi cát vàng trải rộng, quanhco theo những con rạch, mé ghềnh đến trong lòng biển,dưới đáy biển sâu và tận trong lòng đấtthềm lục địa, Phú Quốc chậmđược đầu tư phát triển mang tầmcỡ lâu dài.

Trước hết chúng tarảo qua một vùng đất lớn mang tên Phú Quốc.Dải đất nầy nằm đối diệnvới dải duyên hải tỉnh Kampốt (Campuchia), cáchnhau lối 14 hải lý. Giữa Phú Quốc và nướcCampuchia có hai hòn Nầng trongvà hòn Nầng ngoài làm bìnhphong. Cách Mũi Nai (Hà Tiên) khoảng 60 km, cách Rạch Giá 115 km, Phú Quốc là một huyện của Kiên Giang, chiara nhiều xã. Trướcđây có: An Thới, Dương Tơ, Hàm Ninh, CửaDương, Cửa Cạn, Thổ Châu và thị trấn Dương Đông. Đảo có hình dạng giống như concá vẫy đuôi lội về phía bắc, miệng hárộng. Diện tích đảo 593,05 km2, với nhiềudải núi chạy song hành bắc nam và những đồiđộn. Truyền thuyết cho rằng Phú Quốc có tấtcả chín mươi chín ngọn núi. Điều chắcchắn là núi non Phú Quốc được coinhư nối dài theo dải núi Voi (Kampốt), ngăn cáchbởi con kinh Tà Lỳ. Ngoài những nhánh bắc nam còn cónhiều nhánh đâm ngang.

Về phía bắc, vì gầnnúi Voi, là gốc, nên núi cao hơn. Tuy nhiên cao độ núiở Phú Quốc thuộc dạng trung bình. Đỉnh caonhất trong dải Hàm Ninh là núi Chùa 603 mét. Về mạnnam, đỉnh cao nhất trong dải Dịnh Cựuchỉ đến 158 mét.

Đảo Phú Quốc dài 49 km, từ vĩđộ 10o01’ (tính nơi mũi Ông Đội) lênđến vĩ độ 10o27’ bắc (tại mũiKvala). Bề rộng lối 27 km, từ kinh độ 103o51’(mũi Gành Dầu) cho đến kinh độ 103o50’đông. Nơi hẹp nhất ở phía nam đảo vùngAn Thới độ 3 km.

Phú Quốc có thị trấn Dương Đông, nằm về phía tâyđảo, là một cảnh đẹp, cụ ĐôngHồ đã từng viết:  “Người du khách mớiđến Dương Đông cảm được cái đẹpnhất là cảnh ở cửa nầy. Một bên là bãi cáttrắng, bóng dương tha thướt, một bên làghềnh đá những đồi con, chắn ngang vàm sông,hình gồ ghề kỳ kỳ, quái quái. Khi mặt trờixuống, trèo lên ghềnh mà trông cửa biển chiềuhôm, nước mây man mác, bên kia bóng dương bãng lãng, bênnầy chiếc thuyền trong vàm sông xuôi ra, cánh buồmtrắng phất qua ghềnh đá biếc, mũi rẽ nước,thì đẹp biết chừng nào!”.

Bây giờ chúng ta hãy làmmột cuộc du lịch lên phía bắc ở mũi Kvala, rồitheo bờ tây đi dần xuống nam. Đầu tiên chúngta gặp núi Chảo 371m chiều cao, chân nhô ra biển thànhhai mũi: mũi Trâu Nằm và mũi Đá Bạc. TừĐá Bạc trở đi là một bãi cát dài 2.400 mét dorạch Tràm đổ ra đây. Bên trong là một cánhđồng, hay nói đúng hơn là một diện tích khábằng phẳng, thấp nhỏ, ngập nước,giới hạn bởi ba khối núi: núi Chảo ở phíabắc, núi Hàm Rồng cao 365m ở phía nam và núi Chùa ởphía đông.

Rạch Tràm là đường xâm nhập thiên nhiên vào nộiđịa bắc đảo. Nơi đây thuở xaxưa máu người đã chảy thành suối vàonhững thời kỳ các nơi cạnh tranh khai thácmỏ huyền. Họ đánh nhau, giết nhau đểtrở thành kẻ mạnh trong khai thác. Và sau đó lại đổmáu khi cướp biển phục kích các đoàn phu vậntải chất huyền ra biển. Vì đường nàydẫn vào mỏ huyền nổi danh khắp Á Châu nhờnước huyền đen óng ánh. Vào khoảng thếkỷ XVII, người Mã Lai, Thái Lan, Indonêxia và QuảngĐông (Trung Quốc)mở nhiều cuộc tranh chấp giết chóc lẫnnhau, bỏ lại những hài cốt trôi đầynhững vực xoáy, khúc khuỷu của dòng sông, hốcđá. Nhưng từ sau chiến tranh thế giớithứ II đến nay chưa ai đầu tư khai thácmỏ huyền ở đây nữa.(1)

Khối núi Hàm Rồng theobắc nam dài 10km. Chỉ có phía bắc nhô ra biển nơicó tên mũi “Hàm Rồng”, phần còn lại là ranh giớibên trong của cánh đồng Suối Vạn, cùng phụlưu của rạch Cóc, rạch Cây Nhum đổ ra.

Từ đó trở đi làdải núi Bãi Dài, một phần nhô ra thành mũi GànhDầu, mũi Ba Trại, suốt mùa sóng vỗ vào chân. Ngoàikhơi lố nhố vài đảo con, mỗi đảodiện tích không đầy 300m2. Đó là hòn Bàng, hòn ThầyBói, cách bờ chừng vài km, về phía bắc hòn Nầng,lãnh thổ Việt Nam đã bị quân hoàng gia Campuchiacưỡng chiếm năm 1958.

Bắt đầu từđó bờ biển chạy theo hướng chính nam, qua BãiDài 8.000m, rồi chuyển hướng đông Nam, chođến bãi Cửa Cạn. Trong suốt đoạn nàynhiều hòn núi đơn độc nằm sát biển và ngoàikhơi của đảo Đồi Mồi nổi danh.

Rạch Cửa Cạn, ở vào phía bắcđảo, phát xuất từ triền tây của dãy núi HàmNinh, tiếp nhận nước của hàng trăm consuối định kỳ chảy khúc khuỷu quanh cánhđồng rừng Cấm và đồng Cây Sao,đồng Bà, rồi đổ ra biển. Hải lưuvà gió mùa đã tạo dựng một lưỡi cát dài theosông chảy ra. Lưỡi cát nầy khiến cho nghẽnsông khi chảy ra biển. Mùa nồm, sóng biển đem cátlấp cửa sông, do đó mà có tên Cửa Cạn. Ghemuốn vào sông phải hợp năm bảy chiếcđợi sẵn trước cửa. Khi triềuxuống người ta đem cuốc, leng đào mộtlối thoát nước xuyên qua lưỡi cát, nhờđó nước sông đổ ra biển, làm cho đườngnước rộng nhanh. Rồi ghe tàu mới có thể vàođược. Khoảng một tuần sau, vài đám giônglại làm cho Cửa Cạn lấp lại như cũ.

Cửa Cạn là một consông nho nhỏ, đem phù sa từ vùng núi Hàm Ninh bồiđắp thành một bình nguyên, chưa được khaithác đúng mức. Thượng nguồn sông CửaCạn có cánh đồng Bà, người địaphương gọi là “Đồng Bà Kim Giao”. Tụctruyền rằng bà Kim Giao là một phụ nữ khởixướng việc làm ruộng lúa nước ở PhúQuốc đầu tiên. Bà đưa trâu từ đấtliền ra, khai thác và phát triển ruộng lúa trên cánhđồng nầy. Hiện giờ còn nhiều dấuvết nông cụ và còn những con trâu hoang của bà Kim Giaosống trong vùng rừng Hàm Ninh. Men theo dòng sông CửaCạn, cây cỏ nguyên thủy còn nhiều ở rừngsác, có cả loại cây tràm lâu đời. Tại cửasông, xóm dân cư Cửa Cạn êm đềm sinh hoạt vềnghề đánh cá và làm nước mắm. Đốidiện ở phía nam là một bãi cát dài 1.000 mét. Rồimột mũi đá nhô ra. Mũi Gành Lớn, phía nam củamũi là bãi biển Dương Đông.

Cửa Cạn như tabiết, vào mùa nồm cửa sông thường bị cátbồi lấp, do đó mà có một truyền thuyếtrằng vào năm 1868, trong lúc nghĩa quân của ông NguyễnTrung Trựcbị quân Pháp bao vây thắt ngặt, bà vợ của ôngtừ Ba Trại được tổ chức vượtđường trốn ra. Bà đi bằng ghe theo dòng sôngCửa Cạn để ra biển, có ý vượtbiển vào đất liền. Nhưng vào mùa cửa sôngbị cát lấp, ghe của bà phải mắc kẹttại đây. Bà đang có mang, vì đường sá vấtvả, vận động quá sức, bà sanh thai non giữamột đêm mưa gió hãi hùng tại vàm Cửa Cạn.Biển động thét gào. Giặc Pháp bao vây, bà không cònphương kế thoát thân, dân chúng các xóm đều bịgiặc Pháp bắt gom hết về thị trấn Dương Đông,không ai đến chăm sóc cho bà được. Sức bàcùng kiệt giữa đêm mưa. Bà bị băng huyếtmà chết. Hài nhi non ngày lại thiếu sữa mẹ, cùngchết theo. Có mấy ngư dân gan góc, lần mò qua mắtquân thù, cốt tìm theo bảo vệ bà. Nhưng khi tìmgặp, thì hai mẹ con bà không còn sống được.Họ lén mang thi hài hai mẹ con bà giấu vào mộtbọng cây. Sau đó tạm yên, dân chúng đem hài cốt haimẹ con bà chôn cất tử tế tại bãi Ông Lang(Cửa Cạn).

Rạch Dương Đông dài 15 km,đem nước từ dải núi Ông Thầy, từ phíađông của đảo đổ ra Cửa Dương.Cửa rạch hẹp, phía bắc là bãi cát dài, phía nam làghềnh Dinh Cậu đá nổi lô nhô. Mùa gió nồmthổi, ghe tàu vào cửa khó khăn, tuy cửa không bịcát lấp như Cửa Cạn nhưng gió thổi mạnhliên tục, muôn ngàn lượn sóng từ ngoài biểnđùa vào, nước tung tóe trên ghềnh, sóng đưathuyền vào cửa sông, người thủy thủphải vững tay lái nếu không sẽ bị va chạmvào ghềnh. Cửa Dương Đông là một cảnhđẹp tuyệt vời! Dương Đông còn là một thịtrấn trung tâm hành chánh, kinh tế, văn hóa, xã hội vàthương mại của Phú Quốc, cũng là nơi cónhiều nhà thùng sản xuất nước mắm trứdanh lớn nhất của nước ta.

Phía ghềnh Dinh Cậu, venbiển là một vùng cát chạy dài hướng chính nam quanhững ấp, xóm dân cư trù phú cho tới MũiHạnh, vùng An Thới mới chấm dứt. Thật rabờ biển không mấy liên tục, các mũi chỉ lànhững khối núi mồ côi, không hợp thành sơnhệ ngăn cách, như mũi Tàu Rũ, Mũi Xép, mũiĐất Đỏ, mũi Ông Bốn. Các bãi biểnnhư bãi Dương Tơ rất đẹp, bãi cát rộng -hẹp khác nhau. Cát thật trắng, nước thậttrong, người lội xuống sâu đến cổvẫn nhìn thấy bàn chân.

Từ Mũi Hạnh, bờbiển Cây Dừa đổi hướng tây đông qua cácbãi Cây Dừa, Bãi Xép của khu vực An Thới, rồichấm dứt ở mũi Ông Đội. Từ đóbờ biển theo hướng nam bắc. Các bãi cáttrắng, nước trong, nhiều rêu nối tiếp nhauchạy dài suốt vùng An Thới và nam Hàm Ninh, chỉ giánđoạn với những mũi sa thạch màu hồngbị nước biển xâm thực, tác tạo thànhnhững hình thù kỳ dị. Bãi Khem, Bãi Sao, Bãi Đầmđều là những thắng cảnh, cát trắng sâuxuống từ từ, bên trên cây rừng chạy ra gầnđến tận mé nước. Du khách tắm biển xongcó thể lên trú ẩn trong các lùm cây bóng mát mà chuyện tròtâm sự. Vùng nầy có Rạch Đầm là con suốiquan trọng, có nước ngọt quanh năm.Trước kia có một xóm nhỏ nép mình dưới bóngMũi Chùa.

Các bãi thuộc An Thớichấm dứt ở đây, dưới chân núi ĐồnPhách. Bên kia núi là vùng Hàm Ninh, có con rạch Hàm Ninh đem phù sara biển. Hàm Ninh, nằm ở cửa rạch, có tỉnhlộ 47 dài 14 kmnối liền với Dương Đông. Hai bên lộ có khurừng già 565 và khu rừng sác bảo hộ bờ rạchHàm Ninh. Đây là một vùng thảo mộc nguyên thủy cònlại lâu và nhiều nhất của Phú Quốc.

Trước kia, khi gió mùa tâynam thổi, tàu bè không vào cửa Dương Đôngđược, cặp bến Hàm Ninh khuất gió. Còn mùabấc thì biển Hàm Ninh động. Từ Hàm Ninh trởvề bắc có một dải núi khá cao chạy song songvới bờ biển và gần kề nhau. Bên ngoài, khôngmấy xa, có một dải cồn cát ngầm, khiến chosóng lớn khi chạy vào đây gặp đáy biển,chợt cạn, tạo nên hiện tượng chaođộng rất nguy hiểm cho tàu thuyền.

Quan sát các vùng chung quanhđảo Phú Quốc, bên trong là một môi trườngcủa những đồi độn, không cao cho lắm,giới hạn những vùng thấp hơn, khá bằngphẳng, cỏ dầy, nước ngập vào mùa mưa vìkhông lối thoát nước. Đây là những giang sơn củamuỗi và vắt cùng cỏ rậm, lau sậy hoang vu. Tómlại, bên trong của Phú Quốc là một vùng còn nêđịa. Với những rừng già có các danh mộcnhư cẩm lai, kiền kiền, cam, thị, bờilời, vên vên... Trên các sườn núi xa xôi còn lạimột số cây trầm hương quý giá. Còn ởnhững nơi tập trung dân, chỉ cần đi xachừng một ngàn mét là có đầy đủ gỗtạp để làm củi chụm. Người xưa cócâu về Phú Quốc rằng: “Sơn vô thượng,thủy vô thâm”.

Bờ biển chung quanhđảo rất đẹp! Nước tùy theo cạn,sâu từ trên cao nhìn xuống tựa như những vếtloang khổng lồ màu xanh nhạt ngọc thạch rồiđậm dần như ngọc bích. Mặt biểnđổi màu liên tục theo từng cơn nắng rọixuống xuyên qua các áng mây trôi. Biển và bờ biểnở đây rất quan trọng, có ảnh hưởnglớn đến đời sống nhân dân. Ngoài nhữngbãi biển trải dài như bãi Cây Dừa, bãi Vông, bãi Dài,bãi Cửa Cạn, bãi Dương Đông, bãi Xép, bãi Khem... cònlại đều là triền núi hay ghềnh đá. Hàngnăm, từ tháng sáu đến tháng mườidương lịch biển thường hay động.

Vì bờ biển cạn nênlập hải cảng rất khó khăn. Tàu đánh cáluồng sâu hai mét chỉ có thể vào cửa rạchCửa Cạn và Dương Đông vào lúc thủytriều lên. Tàu lớn phải đậu trong quầnđảo An Thới. Quanh Phú Quốc nhiều nơi còn cónhững dải san hô, khiến cho việc đổ bộvô cùng khó khăn.

Sông rạch Phú Quốcđều ngắn. Biên độ triều rất bấtthường. Từ một mét sâu vào mùa nắng tăngvọt lên đến năm, bảy mét vào mùa mưa.Những cơn nước lụt, nước chảynhư thác đổ làm bật gốc cây cỡ lớn. Cácsông nầy ghe xuồng chỉ lưu thông đượckhoảng 1.000 mét ở hạ lưu, và chỉ loạinhỏ mới sử dụng được. Phầnlớn các rạch đều chảy từ hướngđông sang tây. Đáng kể nhất là rạch Dương Đông,dài chừng 15 km,phát xuất từ khối núi Ông Thầy, nướccũng chảy từ đông sang tây, suốt trung bộcủa đảo. Nơi rạch đổ ra biểngọi là Cửa Dương, cửa cạn hẹp lạibị ghềnh đá làm cho tàu thuyền vào khó khăn. Tuynhiên ghe nhỏ có thể đi sâu vào nội địakhoảng 7 km.Thị trấn nằm trên cửa sông. Nơi đây cónhiều thắng cảnh. Dinh Cậu nằm trên mộtghềnh đá. Chùa nầy được xây dựngtừ lâu và là một thắng cảnh thơ mộng trênđồi giữa khoảng bãi cát vàng chảy rẽ hai,phía về Dương Tơ, phía về Gành Gió. Đứng trên chùaDinh Cậu đưa mắt nhìn bao quát đượccả chợ Dương Đông. Phú Quốcđẹp như một hòn ngọc lấp lánh giữađại dương muôn trùng sóng nước. Đằngkia, bên ghềnh đá chênh vênh, một vài chàng trai, cô gái saunhững buổi lao động ở rừng, ởvườn tiêu, ở các xí nghiệp chế biếnhải sản hoặc sau những ngày ra khơi đánhbắt về, họ rủ nhau ra đây tìm câu những concá tràm, cá chỉ, cá bóng để giải trí, đểtiếp nối hẹn hò.

Sắc thái nhân văn và kinhtế của Phú Quốc có bề dầy giàu tính truyềnthuyết, giai thoại; nguồn văn học dân giannổi bật qua các địa danh, con người trongđấu tranh, xây dựng. Dân số Phú Quốctrước năm 1975 trên 30.000 người.

Hiện nay trên đảo PhúQuốc có rất nhiều nhà thùng sản xuấtnước mắm và một số nhà máy nước đásản xuất cho nhu cầu của ngư phủ. Ngưnghiệp trên đảo phát triển mạnh, có hàng ngàn tàuthuyền đánh cá. Ngoài cá, mực, tôm Phú Quốc còn cómột số hải sản đặc biệt như mai,điệp, hải sâm, vi cá, tổ yến...

Ngoài tài nguyên thủy sản,Phú Quốc còn có nhiều khoáng sản đáng lưu ý.Bắc đảo (Bãi Dài) có mỏ đá mài, nam đảocó sét trắng, mỏ mangan, sắt và nhất là huyềnở Rạch Tràm, một loại quí thạch dùng làm trangsức cho phụ nữ và dùng vào công nghiệp. Trung tâmđảo có oxit đồng màu đen, than đá...

Ở tận phía namđảo còn một nhóm đảo thuộc vùng AnThới, xếp hàng theo hướng bắc nam. Từ trêncao nhìn xuống, chúng ta có thể mường tượnglà một nắp vung bể ra nhiều mảnh và mộtphần đã sụp xuống sâu. Vì biển ở đâysâu một cách đột ngột. Vùng sâu độ 29 métcách bờ không xa. Gần đó, về phía nam có nhữngtrũng sâu, hố sâu đến 40 mét. Điều nầyrất đặc biệt, ở vịnh Thái Lan chung qui làmột môi trường cạn. Có tất cả lốimười mấy đảo ở vùng nầy. Vì vấnđề địa danh chưa xác thực, ta dễhiểu lầm tên đảo được ghi trên bảnđồ và tên đảo được ngườiđịa phương gọi. Đây là tên một sốđảo theo cách gọi của người địaphương: Hòn Dầm, Hòn Dứa, Hòn Rỏi, Hòn Thơm,Hòn Đụng, hòn Móng Tay, Hòn Buồm, Hòn Giông Ngang, hòn Mây RútTrong, hòn Mây Rút Ngoài, Hòn Rơi, Hòn Kim Qui, Hòn Xưởng, HònTranh, Hòn Khô.

Nhóm quần đảo trênrất quan trọng về phương diện chiếnlược, là những pháo đài thiên nhiên quốc phòngcủa đảo.

Tóm lại, Phú Quốc làmột vùng trời Tổ quốc, một vùng biển quêhương đầy hy vọng chứa chan về sựgiàu đẹp. Một vùng có rất nhiều khảnăng phát triển, vì nó đa dạng tài nguyên mặtnổi, mặt chìm và tận dưới lòng đất sâucủa thềm lục địa l

----------------------------------------------------------

(1) Theo “Vịnh Thái Lan”của Sơn Hồng Đức, 1973.

(2) Nội dung nghịđịnh ngày 12-12-1892, trích lại của Portrou Ka Lian,trang 29.

Anh Động

(Nguồn: vanchuongviet.org)