Trởlại thời mới khai khẩn miền đất mớiphương Nam, đất Thủ Dầu Một là mộttrong những cái nôi hình thành chiếc xe thổ mộ ởNam bộ. Trong từ điển tiếng Việt miềnNam, học giả Vương Hồng Sển giải thích:“Xe thổ mộ là chiếc xe do một ngựa kéo dùng chởhàng hóa cho khách bộ hành vùng ngoại ô Sài Gòn, Chợ Lớn,Lái Thiêu” (sđd trang 643). Có nhiều giải thích vì sao xe ngựađược gọi là xe thổ mộ. Về nguồn gốc,địa chí thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, xe ngựacủa Nam bộ là phỏng theo mô hình kiểu xe song mã củaÂu châu. Các nhà văn Sơn Nam, Nguyễn Nguyên giải thích“thổ mộ” bắt nguồn từ hai chữ “thảomã” nghĩa là loại xe dùng ngựa để chở cỏcủa người Trung Quốc. Người khác cho rằng,trước đây việc chở quan tài để chôn xaphải dùng đến xe ngựa đưa đến chỗđất (thổ) mồ mả (mộ), nên quen gọi xengựa là xe thổ mộ (theo ông Hoàng Anh SGGP số375/1998). Nhưng số đông tác giả cho rằng, vì muichiếc xe có hình khum khum mu rùa, giống như nấm mộ(mả đất) nên xe được gọi là xe thổmộ. Ngoài ra có nhiều cụ già Bình Dương lạikhẳng định rằng, thổ mộ là tên gọi xeThủ Dầu Một do nói nhanh, nói gọn của ngườiNam bộ mà thành. Cách giải thích trên, nhất là giảithích xe thổ mộ là tên để chỉ xe ngựa ThủDầu Một còn phải được tìm hiểu thêm.Nhưng rõ ràng, đất Thủ Dầu Một - BìnhDương có nhiều mối quan hệ trong việc hìnhthành, sáng tạo cũng như việc sớm sử dụngmột cách rộng rãi và lâu dài đối với chiếcxe thổ mộ này.
Từcuối thế kỷ XIX, đất Thủ Dầu Mộtlà nơi nghề thủ công phát triển mạnh, kinh tếgiao thông hàng hóa rộng khắp nhờ vào nguồn nhân lực,thợ lành nghề đông đảo, nguyên vật liệugỗ rừng, khoáng sản đặc dụng, dồi dào,lại ở vị trí thuận lợi cho việc giaothương đường thủy, đường bộ,tạo nên một quang cảnh tấp nập “trên bếndưới thuyền”, nhu cầu đi lại, chuyên chởhàng hóa rất lớn. Đường bộ, ngoài đôichân, phương tiện giao thông gần như duy nhấtlà xe ngựa, vì thế nghề chế tác xe thổ mộvà nghề chuyên chở bằng loại xe này nhanh chóng pháttriển. Sự phát triển này còn ghi rõ trong các bài vè, câuhát, ca dao... và trong bài vè chợ Thủ dưới đây chothấy cùng với nghề mộc (trại cưa) nghềxe thổ mộ rất thịnh hành, số xe tại bếnxếp thành hàng dài để chở khách:
“Xuống tới đầuchợ
Trại cưa trước mặt
Thổ mộ có hàng
Rủ nhau soạn bàn
Đi về Bưng Cải
Mênh mông đại hải
Khắp cả Châu Thành”
(Vè chợ Thủ – trích Dân ca Sông Bé, NXBTổng hợp 1991, trang 49)
Từxưa nay, chợ Thủ Dầu Một luôn là ngôi chợtrung tâm của tỉnh lỵ, chợ đầu mốiđưa nhận khách và hàng hóa đi về giữa ThủDầu Một và Sài Gòn – Gia Định hoặc giao nốiđi về các thị trấn làng xã trong tỉnh. Vì thếtrong bài “Vè 47 chợ” đã mô tả nét đặc biệt vềsự nhộn nhịp ra vào “dọc ngang” của đoàn xethổ mộ tại ngôi chợ quan trọng hàng đầunày:
“...Thiên hạ thấtkinh
Là chợ Hớn Quản
Khô như bánh tráng
Là chợ Phan Rang
Xe thổ mộ dọc ngang
Là chợ Thủ Dầu Một
Khỏi lo ngập lụt
Là chợ Bưng Cầu...”
(Vè 47chợ)
Theonhiều tài liệu, vào đầu thế kỷ XX, phươngtiện giao thông của cả miền Đông Nam bộ chỉcó khoảng năm ba chiếc ô tô (lúc bấy giờ gọilà xe điện), chạy các tuyến đường SàiGòn – Chợ Lớn, Sài Gòn – Hóc Môn, Sài Gòn – Thủ Dầu Một.Đó là những chiếc xe đò còn rất thô sơ,nhưng chỉ những người quyền quý, có tiềnmới dám sử dụng. Còn đa số dân lao độngthường đi bộ, khá hơn thì đi xe thổ mộ,nhất là khi có hàng hóa cần phải chuyên chở thườngphải dùng đến loại xe ngựa này. Vì vậy, xethổ mộ có cơ hội phát triển nhanh. Các cơ sởđóng xe ngựa và nuôi ngựa đã sớm đượchình thành và cũng hình thành luôn cả một độingũ chuyên làm nghề đánh xe ngựa. Tuy xe ngựađã xuất hiện nhiều nơi ở Nam bộ,nhưng vào thời ấy cả vùng Đông Nam bộ chỉcó vài ba nơi có khả năng sản xuất đượcchiếc xe ngựa và thường dùng loại phươngtiện này là ở Hóc Môn, Gò Vấp, Thủ Dầu Mộtvà Lái Thiêu. Hai trong 4 địa danh ấy nằm trên địabàn tỉnh Bình Dương ngày nay; Điều đó cho thấy,xe thổ mộ thời xa xưa đã rất phát triển ở BìnhDương. Người ta vẫn gọi xe sản xuấttại đây là xe Thủ Dầu Một để phân biệtvới xe nơi khác. Hơn thế, trong việc truyềnmiệng trong dân gian, nhiều người còn tin rằng chợThủ, chợ Lái Thiêu là cái nôi đầu tiên sản sinh ra chiếc xe “thùng Thủ”, tức làchiếc xe ngựa - xe thổ mộ đã nói trên.
Nhiềucụ già đất Thủ cho rằng ở các vùngTương Bình Hiệp, Tân An, Hiệp An, Phú Cường cónhiều cơ sở đóng thùng xe rất đẹp, bềnchắc và trang nhã. Còn nơi làm bánh xe, trục xe bền chắchơn cả là vùng Thuận Giao, An Thành vì nơi đây cónhiều thợ rèn lành nghề.
Theocác tác giả Pháp là L.De Grammont và Baurac, các chiếc xe song mãsang trọng được đưa vào đất BìnhDương và miền Đông Nam bộ để phục vụcho một số quý tộc, quan lại Pháp vào nhữngnăm 90 thế kỷ XIX. Thấy loại xe này đẹpvà tiện dụng, người thợ Bình Dương vốnkhéo tay liền mô phỏng để chế tác ra chiếcxe thổ mộ. Việc mô phỏng này thành công dễ dàng,vì ở Bình Dương không chỉ có thợ mộc giỏimà còn có nhiều loại gỗ quý tốt cứng chắcđể làm xe. Lúc đầu trục xe, căm xe làm bằnggỗ cứng, về sau cải tiến làm bằng sắtdo các thợ rèn tài nghệ đảm nhiệm, nên xe càng chắcchắn di chuyển càng thêm dễ dàng. Từ chỗ thùng xeđóng không mui, sau cải tiến thành có mui che mưa nắngthêm tiện lợi. Ban đầu chưa có đèn chuông, vềsau có gắn đèn chai lồng và lục lạc đểbáo hiệu... Đặc biệt,khi hoàn chỉnh một chiếc xe, việc chọn giốngngựa ô, ngựa khỏe ở vùng Tân Sơn Nhất, Gò Vấp,Hóc Môn là một bổ sung rất quan trọng để chiếcxe thổ mộ được đưa ra sử dụng.Kiểu dáng, kích thước của chiếc xe thổ mộcó thể thay đổi cho thích hợp tùy theo công việc sửdụng, nhưng nói chung, vẫn luôn có sự cải tiếncho đẹp hơn, tiện dụng hơn. Kích cỡ xethổ mộ về sau dài và rộng hơn xe thờitrước.
Xe thổmộ có lợi thế là rẻ tiền, gọn nhẹ,đi lại được nhiều nơi có địahình phức tạp, nhất là phù hợp với sốđông người lao động thời bấy giờ.Nếu tính từ lúc ra đời, xe thổ mộ đấtThủ đã tồn tại trên 100 năm. Trướcnăm 1945, Bình Dương có rất nhiều xe ngựa,riêng tại chợ Thủ có 3 bến xe thổ mộ vớigần 50 chiếc. Tiền xe một người đi xấpxỉ tiền một tô hủ tiếu cho đoạnđường trung bình 10km.
Nhiềungười cho rằng vị tiền bối của nghềđóng xe ngựa ở Thủ Dầu Một là cụ TrầnVăn Ký, sinh năm 1883. Nhưng người sắm xe thổmộ sớm nhất tại vùng đất này là ôngHương quản Luốc ở xã Định Hòa (gầnchợ Bưng Cầu, thị xã Thủ Dầu Một).
Ngườicũng nổi danh về nghề đánh xe ngựa mà còn nhiềunơi đều biết tiếng không ai khác hơn làngười con trai của vị tiền bối TrầnVăn Ký nói trên: đó là ông Sáu Xích, đã có hơn 40 tuổinghề. Theo ông Sáu, nghề đóng xe ngựa từ xưakhông có trường đào tạo mà chỉ là nghề truyềnthụ trong gia đình: cha dạy con, con dạy cháu. Cũngtheo ông Sáu, phần gay go nhất trong các công đoạnđóng xe vẫn thuộc về phần gia công bánh xe và cácbộ phận chịu lực tải, phần thân xe và gọngkéo thì đơn giản. Bánh xe là phần chịu tảichính phải tuyệt đối bảo đảm trong quátrình chế tạo. Một bánh xe ngựa có 6 miếngđà, 12 thanh căm phải làm bằng gỗ giánghương hoặc gỗ chò. Khó khăn nhất đòi hỏitay nghề cao là khâu làm sao cho vành đai đế niềng6 miếng vỏ khít mí.
Hiệnnay, nghề xe thổ mộ không còn hoạt động nữa,nhưng Bình Dương vẫn còn là nơi hiếm hoi ởmiền Đông Nam bộ có khả năng phục chếđược nhiều kiểu xe ngựa trước đâyđể phục vụ cho nhu cầu của một sốcơ sở, trung tâm điện ảnh, du lịch ởphía Nam.
Riêngông Sáu Xích vừa nói ở trên, nhờ vào kinh nghiệm taynghề và uy tín cá nhân, ông nhận được hợpđồng tái tạo xe ngựa cho các khu du lịch trongnước và khách nước ngoài. Nhiều loại xe ngựanhư xe kính (xe ngựa chở khách có hai cửa), xe lá liễucó mui đều được ông chế tác theo yêu cầucủa nơi đặt hàng. Giá một chiếc xe thổmộ ít nhất cũng trên mười mấy triệuđồng, xe lá liễu thì còn cao giá hơn. Ông Sáu cũngcho biết xu hướng thẩm mỹ của khách mua xehiện nay: “Chừng mấy năm gần đây yêu cầuthẩm mỹ trong cách trang trí cũng bắt đầu cóxu hướng cổ chuộng xưa, cho nên tôi cũng sảnxuất theo đơn đặt hàng những chiếc xe thổmộ, xe lá liễu thu nhỏ để trang trí...”.
Đượcbiết số đơn đặt hàng của các quán cà phêlớn, sang trọng ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnhcàng gia tăng đối với sản phẩm bánh xe ngựado ông sản xuất để dùng vào việc trang trí có tínhhoài cổ này. Giả một bánh xe ngựa (không dùng đểchạy) hơn cả triệu bạc.
Tươngtự như vậy, theo nghệ nhân Trần Văn Trí, chủcơ sở mỹ nghệ Trung Trí cũng cho biết nghềlàm bánh xe bò ở các vùng Hưng Định, Vĩnh Phúcũng có cơ may phục hồi đáng kể. Nhữngbánh xe bò làm ra ở đây không phải dùng cho chiếc xe bòmà được xuất khẩu qua nhiều nướcnhư Ấn Độ, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc,Úc, Nhật Bản... để trang trí các khu du lịch, khuresort của họ (Báo Tuổi Trẻ số 256 ngày18-9-2008).
Mộtnghệ nhân khác cũng rất nổi tiếng, không phảivì ông chỉ có tài phục chế được các cỗxe ngựa của Bình Dương xưa, mà trực tiếptham gia nhiều bộ phim ở nhiều nơi, nhiềuphim trường gần mấy chục năm nay, đểlàm sống lại hình ảnh, bóng dáng của chiếc xe ngựavùng quê Nam bộ, mà tiêu biểu hơn cả là chiếc xengựa Bình Dương do chính ông phục chế và sử dụngtrong nhiều phim. Người đó là ông Hai Sộp, con traicủa vị tiền bối trong nghề xe thổ mộlà ông Hương quản Luốc đã nói trên. Ông Hai Sộphiện ở gần Cầu Ngang, chợ Búng, thị trấnAn Thạnh. Ông có cả một khu đất rộng dùngcho tàu ngựa là cơ sở để phục chế xe ngựa.
Từnăm 1990, ông Hai đã được mời xuống LongXuyên đóng phim: “Thời thơ ấu” (kịch bản củanhà văn Nguyễn Quang Sáng) đi bằng chính chiếc xengựa do ông chế tác. Sau đó, ông lại xuống CầnThơ tham gia phim “Chân trờinơi ấy" (đạo diễn Trần Vịnh), tiếptheo là các phim “Trường xưa kỷ niệm” (tạiBình Dương), “Giai điệu quê hương”, “Mùi đuđủ xanh”, “Người Bình Xuyên”... Cũng trong năm1990, một hãng phim truyền hình Pháp mời ông hỗ trợcho 9 chiếc xe ngựa (theo yêu cầu của hãng) đểthực hiện bộ phim “Người tình”. Thành công củaphim này có những đóng góp không nhỏ của ông.
Nhờchiếc xe ngựa Bình Dương và tài năng của mình,ông đã nghiễm nhiên thành “diễn viên đánh xe ngựa”đặc biệt và quý hiếm vì đồng thời lànhà cung cấp đạo cụ cho các hãng phim trong và ngoàinước ở các cảnh quay có sử dụng ngựahoặc xe ngựa.
Ngoàiviệc “đóng phim”, ông còn đem ngựa, xe ngựa thamgia các lễ hội lớn như Festival Huế và thườngnhận đóng vai phục chế các kiểu xe theođơn đặt hàng của các hãng phim, các khu du lịchnhư: Bình Quới, Văn Thánh...
Sởdĩ ông làm được nhiều việc chung quanh cái nghề(chế tác và sử dụng ngựa) tưởng chừngnhư đã đi dần vào sự quên lãng vì ông cóđược vốn hiểu biết sâu sắc về nghềnày. Nhất là nhờ ông có được lòng say mê và cảsự quý trọng nghề truyền thống của cha ông.Được biết, khi nghề sản xuất và chạyxe thổ mộ ở Bình Dương đã không thể tồntại và phát triển nữa, các đồng nghiệp củaông đều chuyển nghề... Bao nhiêu đồ phụtùng xe ngựa của bạn bè giải nghệ, ông đềuthu mua, gom lại chất đầy kho. Không ngờ sauđó trở thành “kho tư liệu” quý hiếm không dễai cũng có được. Nói về con người đặcbiệt này, nhạc sĩ Võ Đông Điền - một nhạcsĩ nổi tiếng ở Bình Dương đã viết:“Giữa cái tất bật hối hả của cuộc sốngcông nghiệp vẫn còn có một người âm thầm muốnníu lại hồn quê”. Người đó chính là nghệ nhânHai Sộp.
Nhưthế, nghề chế tác và chạy xe thổ mộ là mộtnghề truyền thống khá lâu đời, gắn bó, quenthuộc với cư dân Bình Dương trong nhiều thậpkỷ. Tuy nay nghề này không còn hoạt động nữa,nhưng vẫn còn ghi lại nhiều dấu ấn đậmnét trong trí nhớ nhiều người ở đây. Hình ảnhchiếc xe ngựa trên các nẻo đường làng, trongcác lễ hội, đám cưới quê... đã từng tồntại như một nét sinh hoạt văn hóa củangười Bình Dương và có lẽ của cả vùngquê Đông Nam bộ xưa. Vì thế, đến nay vẫncó nhiều người, trong đó không ít người trẻtuổi vẫn luôn hy vọng rằng, chiếc xe thổ mộthân quen ấy rồi sẽ tái hiện ở đâu đótrong những không gian của các lễ hội hoặc ởcác khu du lịch văn hóa, sinh thái của đô thị BìnhDương cũng như các đô thị đang trênđường công nghiệp hóa và hiện đại hóa...