Cô Loan, Láng Thé
Kinh nghiệm hay là một bài học để bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc trong công đồng người Việt hải ngoại?
(Bài thuyết trình ở Viện Việt học ngày 12-07-08 về Hội Văn hóa Bình dân 1954-1975)

1 - Độnglực nào?

Câuchuyện nầy khời sự từ năm 1931-32, lúc Sinhchưa đến 10 tuổi tây. Sinh là con nhà giàu, có thầydạy tại gia từ lúc lên sáu. Thầy của Sinh làmột một frère des Écoles Chrétiennes (trường TaberdSaigon) có bằng thành chung, cũng là người anh em côcậu với Sinh, vì tình trạng sức khỏe phảivề nhà nghỉ dài hạn. Tên anh là Lê văn Tân, con cả củacậu Út, người họ đạo C.G. Bải xan, quêngoại của Sinh. Anh lớn hơn Sinh 15 tuổi. Tronggẩn 4 năm, trừ ra những khi anh về Bải Xanthăm gia đình cha mẹ 3, 4 ngày và những ngày lễlớn trong năm, kỳ dư anh dạy Sinh it ra là 3giờ mỗi ngày và 6 ngày mỗi tuần, Đi chơiđây đó thì thầy trò cùng đi, có khi thầy theo tròđi đá cá đá gà tre với trẻ nhỏ trong làng. Tuynhiên cờ tướng là môn sở trường thầydạy trò để cùng nhau giải trí trong nhữnggiờ nghỉ ngày nghỉ, đến một lúc tàinghệ thầy trò tương đương nhau nửangựa.

Sauhơn 3 năm thầy trò cả hai cần mẫnngười dạy kẻ học thì trình độ họcthức của Sinh được thầy nhìn nhận làdư sức để đi thi bằng tiểu họctheo chương trình Pháp. Lúc bấy giờ luật giáodục Pháp bắt buộc con em nào muốn thi bằng nàocũng phải nộp đơn qua hệ thốngtrường công, nên trước khi đầy 10 tuổiSinh đã phải ghi tên học lớp nhứttrường tiểu học làng Bình Phú, đượcgọi là trường tiểu học Láng Thé. Trườngnầy ở bên liên tỉnh lộ Vĩnh long- Tràvinh,cạnh bên Nhà Việc ( tức là trụ sở nơi làmviệc các hương chức làng), trường chỉcách nhà ông nội và cha mẹ Sinh ở ấp Long Thuậnlàng Nhị Long khoảng 3 cây số ngàn. Và trong niên khóa1931-32, hằng ngày Sinh phải đi học trườngtiếu học Láng Thé. Điều đầu tiên phảinói ra đây là Sinh đi học bằng xe hơi, mộtchiếc xe Fiat nhỏ, có tài xế riêng (anh Ba Mau, ngườiKampuchea). Ăn mặc thì luôn luôn quần short Kaki, áosơ-mi trắng ngắn tay, đi săn-đan da.Phương tiện chuyên chở và cách ăn mặc là 2 điềulàm cho Sinh thẹn thùng nhứt khi đi đếntrường trình diện thầy giáo Chữ.

Thờiđó, ngày hoc 2 buồi, sáng từ 8 giờ đến 12giờ trưa, học trò về nhà ăn cơm ngủtrưa, 2 giờ trở lại hoc tiếp đến 5giờ. Vì thế mà cha mẹ phải gửi Sinh cho mộtgia đình, tên Trần Dình, có tiệm bán chạp phô vàmột thớt thit heo ngoài nhà lồng chợ. Sau buổihọc sáng, Sinh về đó ăn cơm trưa và ngủnghỉ, để 2 giờ phải trở lạitrường học đến 5 giờ chiều thì đãcó xe hơi nhà đến rước.

Nhàchú Dình có 2 cô con gái, tên con chị là Phụng, 14 tuổiở nhà giúp mẹ trông nôm cửa tiệm; con em tên là Loan,khoảng trên 10 tuổi. cùng đi học một lớpvới Sinh, nhưng đóng vai trò như mộtngười chị, trong trường thì luôn luôn bảovệ và binh vực Sinh, ở nhà thì lo cơm nướccho Sinh mỗi bữa trưa.

Lớpnhứt của Sinh có 37 đứa, 11 gái và kỳ dư làcon trai, có những đứa cao hơn Sinh cả cáiđầu. Điều phải nói ở đây là ởtrường mấy đứa con gái ăn hiếp Sinhmột cách tàn nhẩn, ví như trong lớp bắt Sinhphải ngồi bàn nầy, dời qua chỗ kia bấtchấp thầy Chữ la rầy. Ở trong làng, tuy là concháu đại điền chủ có anh ba Cừngười làm lo áo quần tắm rửa cho Sinh, dẫnSinh đi chơi xóm dưới hay xóm ngoài, nhưng Sinhvẫn thích nhứt là đi chơi, đi câu, bắtchuột, gát chim, đuổi chim… với các con táđiền cùng lứa cùng tuổi. Nhưng ởtrường thì hoàn toàn khác biệt, ở đây có cảmột bọn, một tập đoàn khác biệt, cónhững thú chơi hoàn toàn mới lạ cho Sinh, nhưđá banh cao-su, thảy lỗ, đánh bi…mà rất buồnlà lúc đầu không một đứa nào có chút cảm tìnhgì với Sinh mà Sinh lại hết sức thèm thuồngnhập bọn để học hỏi những tròchơi, những nghệ thuật mới lạ. Nhưngtất cả con trai nhứt là con gái đều tỏ rakỳ thị và ghét Sinh, nên hở ra có dịp là ănhiếp Sinh. Sinh xin đá banh, thảy lỗ bay bắn bivới bọn con trai, thì tụi nó không cho, vì sợ Sinhbị đá gảy giò, bị xô té gảy tay. Sinh lớxớ xem con gái nhảy lò cò, đánh đũa thì bịtụi nó la ó đuổi đi: ‘’chỗ con gái ngườita chơi, đi chỗ khác cho mau, mầy!

Nhưngmay cho Sinh, vì hoàn cảnh bị nạt nộ, bị xuađuổi của bọn con gái cũng như bọn contrai chỉ kéo dài chưa tới một tháng. Sau đó thìtình trạng hoàn toàn trở ngược lại: cả trailẫn gái đều giành nhau gần gũi với Sinh, làmbạn với Sinh. Lý do vì sao? Vốn Sinh nhỏngười nhỏ tuổi hơn nhưng về hai môn Toánvà Pháp văn, Sinh học giỏi hơn tụi nó quá xa,học trong 3 năm rưởi, có thể bằng chúngnó  học trong 10 năm. Sinhđinh ninh mình giỏi hơn, nhưng không chắc gì mìnhthông minh hơn. Giỏi hơn chỉ vì họcđược nhiều giờ hơn, và nhứt là cóthầy giáo giỏi dạy tại gia, đó là phầnchắc. Thành thử  chưaquá một tháng, các bạn của con Loan đều nhìnnhận Loan giỏi hơn chúng nhiều, có hỏi thì Loannhìn nhận là nhờ thằng Sinh chỉ cho. Thành ra lầnlần thay vì nhờ Loan chỉ bài cho thì hay hơn lànhờ thẳng thằng Sinh cho mau, cho tiện. Đếnlúc đó thì ai ai cũng muốn chia sẻ trò chơivới Sinh, có mấy đứa con gái còn muốn dạySinh đánh đũa, nhảy ô…Chính con Xuân là con nhỏăn hiếp làm khổ Sinh nhứt lại là đứabắt đầu thương Sinh nhứt . (Hai mươilăm năm sau, trời giong ruổi thế nào mà nóphải nhờ anh ba Đước, dượng hai của nó,dẫn đến xin việc với Sinh, vì lúc bấygiờ Sinh đã làm Tổng Giám đốc Viện Hốiđoái Quôc gia V.N.. Trước sự ngở ngàng củacon Xuân. Sinh vui vẻ trả lời là ‘’trước kia taocòn giúp tụi bây làm bài, lẽ nào bây giờ không giúpđược mầy một việc làm để nuôi giađình sao?’

Từngày được bọn con trai cũng như con gáichấp nhận cho nhập bọn với chúng và nhứt là cảm thấy sungsướng khi chỉ bài cho chúng, một thứ trả thùtrẻ con, chẳng bao lâu, hai tháng ba tháng sau đã có mộtsự biến chuyển tâm linh hay ý thức, dần dầnSinh cảm giác thấy mình như có bổn phận chiasẻ với chúng những gì mình hơn chúng, không phảivì mình tài ba thông minh hơn chúng, chẳng qua hơn chúng vìđược gia đình, vì được xã hộiđãi ngộ chu đáo hơn chúng quá nhiều. Mộtyếu tố khác không kèm phần quan trọng đã giúp vàosự biến chuyển tâm linh đó, tức là thầy giáoChữ có thói hay véo đít học trò, con trai cũng nhưcon gái. Luôn luôn thầy gọi từng đứa lên bànthầy để thầy sửa bài trước mặtcả lớp, một lỗi là một cái véo đít.Nạn nhân tự do nhăn nhó, có khi nước mắt thahồ chảy, nhưng tuyệt đối khôngđược khóc thành tiếng. Sinh ngồi dướilớp nhìn lên, nhiều khi cầm mình không đặng,cũng nhăn nhó, còn muốn khóc cho các bạn mình là khác.Nhưng trong một buổi học, một ngày học làmsao thầy có đủ thì giờ để sửa bài,để véo đít cho cả lớp. Đang khi đó thìSinh có thầy dạy tại gia, học ở nhà, Mỗingày, 6 ngày trong tuần Sinh phải học ít ra là 3 giờ,như nói trên, thì làm sao mà không giỏi được vàkhông bao giờ bị anh hai Tân đánh hay véo tai véo đít.

Dùmới 9, 10 tuổi Sinh cũng đã thấy rõ ràng cósự khác biệt, bất bình đẳng giữa haigiới cùng chung một xã hội. Một giớiđược xã hội đãi ngộ hơn quá nhiều.Hơn nữa Sinh cũng ý thức: càng đượcđãi ngộ hơn càng mắc nợ với xã hộihơn. Đó là cải lẽ đương nhiên cũng làlời răn dạy của một bà mẹ CG đạodòng luôn luôn chăm nôm giáo dục và nhứt là đứcdục của đứa con thứ Tám, mà bà âm thầmmuốn dâng cho Chúa để sau nầy trở thành linhmục cho xã hội, cho Giáo hội..

Ngoàira Sinh đã thừa hưởng cái tánh hay bất bìnhtrước những cái bất công, những cái ápbức…của một đứa con đại điềnchủ miến Nam như nhiều nguời con khác. Đócũng co thể gọi là một thứ bản tánhcủa những anh hùng rơm miền Nam V.N., mộtthứ bản tánh tự nhiên thứ hai.

Tâmlý học có dạy: một đứa trẻ 8, 9 tuổiđã có nhửng xu hướng tốt cũng nhưxấu, tiềm tàng của những hành động cụthể sau đó của một người trưởngthành ba bốn mươi tuổi. Đúng cho ai, Sinh khôngbiết nhưng rất đúng cho Sinh, như sẽthấy sau.

Cóthể vì những dự bị tâm linh nói trên mà Sinh ưathích và  chọn lựa cho mìnhmột cái nghề, nếu không nói là một sựnghiệp, là nghề dạy học. Theo Sinh dạy ởđây không có nghĩa là dạy bảo mà chỉ có nghĩalà chia sẻ như khi ở trướng tiểu họcLáng Thé. Và ý niệm đó luôn luôn theo Sinh qua các tuổiđời của mình. Mười chín tuổi, năm 1941Sinh dạy một lớp chót trường tiếu họcNguyễn trướng Tộ ở Vĩnh long. Haimươi bốn tuổi, Sinh dạy trung họctrường Philippe Minh của Đức Cha Ngô đìnhThục cũng ở Vĩnh long và ba mươi lămtuổi, Sinh dạy Đai học Sư phạm Saigon, cùngmột lúc dạy hai lớp kế toán trường Bách khoaBình dân Saigon, từ 7,30 giờ đến 9,30 tối.

 Nói đến đây thì bạnđọc có thể nhận thấy động lực nàođã thúc đẩy Sinh, khi du học xứ ngườichưa xong, sau hiệp định Genève chia đôi đất nước (20-07-54) đãvội vã về nước (24-08-54) và gần nhưcũng đã vội vã đứng ra thành lập cáctrường Bách khoa Bình dân (tháng 10, tháng 11-1954) và 5 tháng sautụ tập một số trí thức miền Nam cóthiện chí đã lập hội Văn hóa Bình dân, mụcđích là để nâng cao trình độ kiến thứccho giới bình dân, tức là góp công xây dựng miền Namcho đến ngày CS miền Bắc đánh chiếmmiền Nam (tháng 4, 1975).

Tómlại, chính cái ý thức mắc nợ xã hội,được xã hội đãi ngộ quá nhiều, có tráchnhiệm hay là bổn phận phải trả nợ,tức là phải chia sẻ với những ngườikhông được đãi ngộ bằng mình những cáimình hơn người, đó là mớ kiến thức haychuyên môn mình thu nhận được. Những ai được đãi ngộ hơnnguời mà không trả lại ít nhiều tức là gianlận cũng gọi được là quịt nợ.

Trong20 năm V.N. độc lập (1954-1975), Sinh đã chứngkiến bao nhiêu chuyện quịt nợ như thế.Đó là những ông bự nắm những chức vụlớn trong xã hội miền Nam, vì họ có nhữngbằng cấp cao Hautes Etudes Commerciales, Polytechnique, Centrale, MBA,Ph.D. v.v...nhưng họ là những người quịtnợ, đển khi phải tản cư ra hảingoại, để rồi có người viết hồiký tự khoe mình nào là học giỏi hơn người,nào là nhà ái quốc, chỉ biết ưu tư cho vậnmạng quốc gia, cho quyền lợi dân tộcv.v...Nhưng thật ra họ là những nguời chỉbiết hưởng thụ, chỉ biết vay nợ màkhông lo trả. Kinh nghiệm của Sinh: Sinh đã kêugọi tất cả giới Intelligentia (Trí thức)miền Nam tham gia công tác Giáo dục bình dân. Đã cónhiều thành phần hưởng ứng, nhưng cũngkhông thiếu những người thờ ơ, lãnhđạm. Đang khi anh em  hisinh một hai giờ mỗi tối, người dạynghề nguời dạy chữ, thì họ miệt mài trongcác phòng trà, các hộp đêm, đi du hí du thực ởVũng tàu Đalạt…Xã hội miền Nam không cầnbạn phải làm gì thêm cho nó, chỉ trả nợ nó chođủ thì chắc miền Nam V.N. đã có một phéplạ kinh tế chánh trị rồi. Chỉ lầy hai consố sau đây để hiểu điều Sinh nói.Năm 1957, là thành phần của ban Khảo sát Vũquốc Thúc-Stanley, Sinh khám phá ra một hiện tượngquá trớ trêu như sau: cả miền nam V.N. chỉ cókhoảng 160 bác sĩ, kế cả các Médecins indochinois,chăm lo sức khỏe cho 20 triệu dân, đang khi đóthì ờ Paris và ngoại ô thành phố có trên 350 bác sĩ V.N.hành nghề, phần nhiều là chuyên môn. Một hiệntượng không kém phần phụ phàng khác nữa:cuối năm 1949 chiếc tàu Champollion của hảngMessageries maritimes chở trên 240 sinh viên VN đi du học(trong đó có Sinh), nhưng 9, 10 năm sau thì thấy cómặt ở V.N. chỉ có 6 người, 4 người contrai là Hoàng anh Tuấn, Ngô trọng Anh, Nguyễn quang Lệvà Huỳnh văn Lang, cùng hai chị Kỳ Mỹ và NhưCầu. Trách chánh quyền khônglàm gì để lôi kéo họ về hay là phải trách chínhngười con dân V.N. chúng ta, mà trong đó có lắmngười hay quịt nợ?

 

2 - Hội Vănhóa Bình dân (1955-1975)

Thủ tướng Ngô đình Diệm thànhlập nội các đầu tháng 7, 1954, trướchiệp định Genève 2 tuần. Ngày 24 tháng 8, Sinh cùng 5bạn khác là Đỗ vạng Lý, Dư phước Long,Nguyễn Thái, Đỗ trọng Chu, Bùi kiến Thànhđược thủ tướng gọi về giúp nước.

Saukhi trình diện Thủ tướng, HVL (Huỳnh vănLang) được chỉ định tạm thời làmphụ tá cho Bí thư Võ văn Hải. Mấy hômđầu, HVL ăn ngủ trong dinh Thủ tướng làdinh Gia long. Sau đó, HVL được đưa vào ởtrong Nhà ngủ Kinh Hoa, gần đầu đườngTrần hưng Đạo, Chợ lớn. Như tiềnđịnh, HVL phải chia phòng với Đỗ trọngChu và Lê thành Cường, một kỹ sư canh nông trongnhóm của Ngô đình Luyên, Nguyễn văn Thoại…Trongnhững khi sông chung (tạm cùng), nhiều lần HVL chia sècái tham vọng lập một trường Bách khoa chogiới bình dân theo kiểu Đông kinh Nghĩa thục gì gìđó hay những lớp tối ở các trườngđại học Pháp Mỹ và được hai anhbạn  hoàn toàn tán thành vàbằng lòng hợp tác. Nhưng tất cả đều lànói miệng, vì muốn làm cái gì cũng phải có tiền,không tiền thì phải có quyền, mà cả ba thì lại chưacó gì hết.

Nhưngtrong cái rủi lại có cái may. Vốn trong tháng 10, 1954tướng Nguyễn văn Hinh đã lôi kéo quânđội, mưu toan lật đổ Chánh phû Ngô đìnhDiệm. Có lúc chính thủ tướng Diệm địnhrút lui, nên gửi HVL qua bộ Tài chánh cho có công việc làmchánh thức, để chánh phủ có đổ, như ôngnói, HVL còn có đường xoay trở, nếu muốntrở lại Mỹ tiếp tục chương trình caohọc đang bị bỏ dỡ. Không dè về bộ Tàichánh, trong khi phụ trách việc giải tán các ngân sách baphần để thống nhứt ngân sách quốc gia. HVLđã bắt gặp một ngân khoản 50,000 đồngkhông xử dụng (Exercice Clos) của mục Đại học Bình dân, Ngân sách Namphần. Và HVL đã xin Bộ Tài chánh số tiền đóđể khởi sự  cáclớp tối truờng Bách khoa Bình dân, mở ra tạitrường  Tôn thọTường, đường Trần hưng Đạo,trước cửa rạp hát Đại nam. Ngày khaigiảng là ngày 15 tháng 11, năm 1954, tức là cách đây 54năm.

Sauđảo chánh 01-11-63, ‘’Người lính cai trị’’bắt HVL và giam giữ gần 3 năm. Chính lúc ngồi tùkhông bản án, ban quản trị Hôi Văn hóa Bình dân đãtổ chức kỳ niệm 10 năm thành lập Hôi VHBD(tháng 4, 1965), có cho in một bản phúc trình ghi lại thànhquả của Hội. Năm 2005, tôi có viết bài kỷniệm 50 năm của Hội và may thời anh Trầnxuân Roanh nguyên hội trưởng chi nhanh Hội VHBD Biên hòacòn cất giấu được một bản trong khi CSđánh văn hóa miền Nam và gửi tặng lại chotôi. Khi viết bài về Hội VHBD tôi phải xữdụng tài liệu quí báu và xác tín nầy hơn là ký ứclẫm cẫm của tôi. Nếu các bạn đãđọc bài Kỷ niệm 50 hiện các bạn có trongtay, thì không còn gì phải nói gì thêm nữa, ngoài vài ba bứcảnh mà tôi đặc biệt muốn khoe với quívị.

(Xembài  ‘’Kỷ niệm50 năm hội VHBD 1955-2005 Saigon’’)

 

3 - Kinh nghiệmhay thành tich của Hội VHBDcó thể nào dùng được trong việc bảo tồnvà phát huy văn hóa dân tộc V.N. cho cộng đồngngười Việt hải ngoại, nhứt là cho cácthế hệ mai sau. Đây là phần thứ ba của bàinói chuyện nầy.

Sơlược về Văn hóa, có quá nhiều địnhnghĩa văn hóa khác nhau. Ở đây chỉ sơlược nói văn hóa là cái gì? Văn hóa là cách sống,cách suy nghỉ, cách liên hệ người với người,người với trời đất, với vạnvật, với vũ trụ…, Văn hóa chia ra văn hóavật chất và văn hóa tinh thần hay thiêng liêng.Nếu nói về văn hóa dân tộc là nói về nhữngcái vửa tinh hoa vừa khác biệt với những vănhóa dân tộc khác. Ví như cũng là bánh bột gạo,cũng là nước dùng giống nhau đó, nhưng cáchnấu khác nhau để rồi hũ tiếu không phảilà phở, cũng rau đó cá thịt đó gia vị me chuađó nhưng canh chua V.N không phải là canh chua Thái. Đó làvăn hóa vật chất. Nhưng nếu nói văn hóa tinhthần, ví như văn hóa duy vật Mác-lêninít thì tabiết là hoàn toàn ngược với văn hóa duy tâmcủa Phật giáo hay văn hóa duy linh của Thiên chúa giáochẳng hạn…Mà văn hóa dân tộc V.N. là văn hóavừa duy tâm vừa duy linh thì rõ ràng ngược lạivăn hóa duy vật Mác-lêninit. Đó là nói về lýthuyết, về thực hành trong đời sốngcủa con người, của xã hôi V.N. lại càng rõ rànghơn nữa.

Từngày Hồ chi Minh và Đảng CS V.N. (1930) nhập cảngvăn hóa Mác-lêninít vào xã hội V.N., mưu đồ chiphối toàn diện hay đúng hơn là thay thế vănhóa dân tộc V.N., đầu tiên là miền Bắc từnăm 1954 hay phân nửa dân tộc và sau tháng 4, 1975 tấtcả nước, cũng là tất cả một dântộc, để gây ra một cuộc chạy giặc,một cuộc di tản khổng lồ: một triệu,hai triệu hay 3 triệu con dân V.N. phải bỏ xứ rađi. Nói chung, họ mất hết tài sản, mấtcả sự nghiệp của một đờingười xây dựng, có nguời mất cả giađình…

Cáimay là một số lớn họ còn giữ lạiđược mạng sống của họ và họ cònmang theo được cái gia sản quí báu nhứt củahọ là văn hóa dân tộc của họ: CS, hảitặc, trời cao biển cả với bảo tố,sấm sét của nó…không làm sao cướp mấtđược. Khi đến xứ tự do, dù connguời của họ có đồi tụy, có gầy gòđau yếu, dù nhiều khi đầu óc của họ cóbất thường đi nữa…nhưng cái gia sảnvăn hóa của họ vẫn còn nguyên vẹn. Đang khiđó thì văn hóa dân tộc còn kẹt lại bên nhà, sau khibị cướp giựt, bị đánh đập,bị hãm hiếp đi hãm hiếp lại…văn hóaMác-lêninit đã tiêm nhiểm vào bao nhiêu là vi trùng, vi khuẩn,Kock có, Syphilis có, AID có…(nghĩa bóng) chẳng bao lâu sau, 10năm, hai chục năm sau những vi trùng vi khuẩnđó đã xuất hiện rõ ràng dưới hình thứcnhiều chứng bệnh xã hội vì chính những phùthủy Mác-lêninít triệu  âmbinh để rồi không điều khiển nổi âmbinh nữa. hằng ngày báo trong nước cả báo Công anđã báo động những nguy cơ quá tầm tayquyền lực của Đảng, mà chung qui và tổngquát nạn nhân vẫn là văn hóa dân tộc V.N.

Nóinhư trên để xác nhận rằng những con dânV.N.phải di tản, kịp thời mang theo mình cái giasản văn hóa dân tộc còn được lành mạnh,tức là đã được lịch sử giao phómột sứ mạng trọng đại là bằngmọi giá phải bảo tồn cho kỳ cùng, vì ở bênnhà cái văn hóa dân tộc đó đang bị đàyđọa, hãm hiếp… đến đổi đánhmất cả linh hồn của nó, dù thể xác vẫn cònoằn oại sống dở chết dở hoặcđược trang điểm lòe loẹt như mộtgái điếm để tuyên truyền hay gạt gẫmkhách du lịch làng chơi.

Vậy câu hỏi phải đặt ra ởđây: những con nguời V.N. mang ID người chạygiặc CS, có nên ý thức là chúng ta phải hảnh diệnvề cái ID nầy vì kèm theo cái ID đó chúng ta có mộtsứ mạng cao cả là bảo tồn văn hóa dântộc với những giá trị tốt đẹp,với những tinh hoa tuyệt vời của nó, mà các dântộc khác không có hay không biết. Cho nên việc đầutiên là chúng ta không thể nào đánh mất cái ID‘’người chạy giặc CS’’ và không bao giờđể cho ai tước đoạt. Không ai lạimuốn đánh mất linh hồn của mình, phải khong?

Xin mở dấu ngoặc ở đâyđể nói về hai chữ GIẬC và CHAY. Giặc thìhòan toàn đúng, không phải nguời CS miền Bắcđã đến, và đã cuớp của giếtngười, giết cả văn học văn hóamiền Nam là cái gì? Thế ky thứ 12, Thành Cảt TưHản đi đến đâu là giết người,cướp bò lừa, cướp đàn bà con gái…và CSmiền BẮC vào miền Nam, còn tệ hại, nếukhông nói là dã man hơn, họ muốn đánh cướpcả linh hồn của dân miền Nam, cướp phávăn hóa văn học miền Nam cũng gọiđược là văn hóa văn học dân tộc, vìvăn hóa văn học miền Bắc là văn hóa vănhọc Mác-lêninít từ lâu.Tệ hại hơn Mông cổ,vì họ không có phá hủy các văn hóa khác: ở Trungđông họ thành lập đế quốc Mông cổnhưng vẫn giữ văn hóa Hồi giáo, cũng nhưHốt tất Liệt chẳng những tôn trọng vănhóa Hán mà còn giúp nó phát huy thêm, như cho nhập cảngPhật giáo chánh thống Tây tạng và khoa học kỹthuật của Âu Tây (xem Marco Polo).

 Còn CHẠY thìthế nào? Thật là đau đớn nhưng không có gìphải hổ thẹn, vì chạy mà còn mang theođược gia sản quí báu của ông cha mình là vănhóa dân tộc và lịch sử đã giao cho mình sứmạng thiêng liêng bảo tồn trong bản chất và hìnhthức tốt đẹp nhứt của nó. Để làmgì? Để truyền lại cho những thế hệ maisau của dân tộc V.N. Cái sứ mạng đó càngtrọng đại nếu không nói là cao cả, chính vìở lại bên nhà nó đang băng hoại thê thảm.

Càng cao cả hơn nữa, vì trong môitrường mới có bao nhiêu là nguy nan và cạm bẩy.Nhưng cũng không thiếu phần thuận lợI,chẳng những là để bảo tồn mà còn có cơphát huy là khác, khi phải đụng chạm với vănhóa xứ người, nhứt là khi văn hóa nầylại kết sức đa dạng và phong phú, chỉ cóvấn đề là phải biết chọn lựa.

Xinnói thêm về chuyện văn hóa ở lại nhà và sứmạng của những người ra đi, đúnghơn là bị xua đuổi đi. Năm 2006 sau 3 thángđi V.N. về, tôi có viết và xuất bản tập sáchnhỏ có tựa đề là ‘’ Đã hơn 30 nămrồi!’’ với cái bìa sách xem ra khó chịu làm cho nhiềungười dị ứng, vì có phân nửa lá cờĐỏ sao Vàng của CS. Thật sự bìa sách nầymuốn nói lên tình trạng hiện tại ở V.N.,tức là tình trạng văn hóa Mác-lêninit đang lấnlướt, nếu không nói là đô hộ văn hóa dântộc V.N., biểu hiệu một cách trung thực và trungthành nhứt là cở Vàng sao Đỏ của Thanh niênTiền phong, hoàn toàn ngược lại với cờĐỏ sao Vàng, biểu hiệu của văn hóaMác-lêninit. Đúng vậy, đang khi văn hóa dân tộc luônluôn chủ trương họp nhứt trong nghĩađồng bào (trăm trứng trăm con cùng một bàothai), thì Đảng CS theo chủ nghĩa Mác-lêninítđề xuớng giai cấp đấu tranh, đưađến chỗ dâm chém nhau giữa người mộtmẹ một cha. Điều nầy qua rõ ràng từ tháng 8,1945, không cần phải chứng minh nữa. Dang khi vănhóa dân tộc V.N. thấm nhuần NHâN NGHĨA LỄ TRI TiN,(một thứ đạo đức phổ thông) thì văn hóa của CS làvăn hóa Bất nhân, Bất nghĩa, Vô lễ, Bất trívà Bất tín: conngười của Đảng đào tạo ra là conngười bất nhân bất nghĩa, vô lễ, bấttrí và bất tín. Bằng chứng thì quá nhiều và quáhiển nhiên, nhưng cũng nên nhắc lại một vàimà chúng ta không bao giờ quên, dù có muốn tha thứ (forgivebut not forget) và lịch sử vẫn còn đó.

Thửhỏi và tự trả lời: Nhân nghĩa chỗ nào trongvụ Cải cách ruộng đất ngoài Bắc trongnhững năm đấu thập niên 50? Nhân nghĩachỗ nào với chế độ Tù cải tạođối với cán bộ miền Nam. Nhân là ngườivà họ đã mất tình người, mất cả tínhngười. Luôn luôn họ tự xưng là đĩnh caotrí tuệ loài người, thế mà cán bộ củahọ đảng viên của họ là bà Dương thuHương dám viết, dám khẳng địnhtrước mặt quốc dân V.N., trước mặtthế giới là không ai ngu xuẩn bằng họ, họở đây bắt đầu từ Hồ chí Minh, Lê Duẫn, Phạmvăn Đồng, Lê đức Thọ… chủtrương đánh Mỹ. Thật ra đúng là BAT TRÍ, họkhông thấy xa hơn lổ mũi, họ là nhũngthằng trẻ con bị đàn anh xúi ăn cứt gà sáp.Bất trí đến nổi giờ đây phải qùylụy nguời Mỹ và nhứt là phải run sợngười Tàu, phải nhượng biển nhượngđất mà nào có yên cho. Còn nói đến chữ TíN thì làquá lắm: Hiệp định Paris 1973 còn đó, TếtMậu thân 1968 còn đó. Bất tín đưa đến dãman là khác: vụ thảm sát ở Huế đầu nămđó. Nói gì bây giờ, văn hóa của họ là thế! Vàhọ đã thành công, họ đã đào thải hay thaythế văn hóa dân tộc V.N. bằng thứvăn hóa hoàn toàn ngoại lai. Với 3,000 bản, cái bìa sáchcủa tôi đã long trọng khẳng địnhđiều đó. Và trong sách tôi cũng có khẳngđịnh: chính Hồ chí Minh lãnh đạo một cáchhết sức ý thức và kiên trì việc đô hộ haythực dân văn hóa đó, không bao giờ nên đổlổi cho ai khác. Một bằng chứng: Ông Hồ luôn luônđóng cái áo 4 túi theo mẫu mực Mao-Staline hay củavăn hóa Mác-lêninít. Ông không bao giờ mặc quốcphục dù trong trường hợp nào đi nữa, ôngđã hoàn toàn ly khai với y phục của cha ông củaông, một triệu chứng ông đã ly khai vơi vănhóa dân tộc của ông, nhưng ông không bao giờ nói ra.

Năm1956, trong bữa tiệc khỏan đãi thủ tuớngNê-ru, tôi được hân hạnh ngồi gần thủtướng Ấn độ (Tổng thống Diệmsấp xếp như vậy, không phải vì tôi làngười quan trọng, chỉ vì có ý khi có vấnđề về ngôn ngữ, tôi có thể giúp ông mộtchút, cũng như tháng 7 năm trước (1955) trongcuộc đàm phán tay dôi giữa ông và tướng Kim, trùmKIA, đại diện cho Tổng thống Lý thửa GiànĐại Hàn, ông bắt buộc tôi phải làm thông ngôn choông, dù tôi từ chối, vịn lẽ tôi không giỏi Anhngữ). Tôicó hỏi thủ tướng Ấn độ: có phảiThủ tướng luôn luôn mặc quốc phục? Thủtướng Nê-ru trả lời là từ năm 1922, từPhi-châu về nước lập đảng Quôc hội ôngkhông bao giờ bỏ quôc phục để làm gươngtôn trọng văn hóa Ấn độ của minh. Tôi có phavào: quôc vương Thái lan cũng như Nhật hoàng là nhữngvị tôn trọng văn hóa Anh thật nhiều, nên đãtheo lễ giáo người Anh trong nhiều trườnghợp và mặc y phục người Anh, nhưng vẫngiữ quốc phục trong những đại lễtruyền thống quốc gia. Một điều mà Hồchi Minh không làm, vậy là nghĩa làm sao?

Hiện tượng văn hóa Mác-lêninitđang dô hộ, chi phối, nếu không nói là lầnlần tiêu diệt văn hóa dân tộc V.N. là một sựthật, phũ phàng bao nhiêu vẫn là sự thật, nênkhông có gì phải dị ứng cả, ngược lạiphải nhìn nhận để có ý thức, ý thức vềsứ mạng của mình, về trọng trách của mình,là những người có ID ‘’NGƯỜI CHẠY GIẶCCS.’’.

Bảo tồn và nhứt là phát huy thì tùythuộc quá nhiều vào hoàn cảnh, tùy theo môi trườngmới lạ của con người hải ngoạiphải dung thân. Biết rằng văn hóa phải thayđổi và chính đó là cái khó chúng ta phảiđương dầu  luôn luônvà phải vượt qua. Chuyện bên nhà thì như đãnói ở trên. Chuyện hảingoại là chuyện bảo tồn, khó thế nào? Cóthuận lợi phần nào không? Đó là những câuhỏi.

Cáiđộng lực thúc đẩy tôi đứng ra thànhlập trường BKBD, hội VHBD chỉ là ý thứcmắc nợ và có trách nhiệm hay bổn phận phảitrả nợ, mà cách trả nợ tốt đẹp nhứtnhư tôi nghĩ là chia sẻ kiến thức hay chuyên môncủa mình cho giới bình dân gồm những conngười không được xã hội đãi ngộ bằngmình. Nếu phải so sánh thì trong chừng mực nào đó,nghĩa là ở một trình độ thấp kém hơn,cái ý thức mắc nợ và bổn phận phảitrả nợ không bao giờ cao cả và trọngđại bằng cái sứ mạng mà lịch sử giaophó mà ‘’người chạy giặc CS’’ có ý thức hay không,có muốn hay không cũng phải nhận lãnh, không thểtrốn chạy được, trừ phi từ bỏ cáiID ‘’người chạy giặc CS’’của minh. Nhưngrất may là hầu hết người Việt hảingoại đều chấp nhận cái sứ mạngbảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc cách nầy haycách nọ, tuy nhiên phần lớn đều không ýthức.

Vídụ: Hỏi Asia, hỏi Paris by Night có ý thức sứmạng văn hóa của minh không? Làm thì làm và làm hăng saylà khác, nhưng có phải vì sứ mạng hay vì mụcđich gì khác? Thử hỏi các nhà văn, các nhà báo xem cácbạn trả lời thế nào? Tuy nhiên có làm là hơn khônglam, nhưng làm với ý thức thì chắc chắn sẽtốt đẹp hơn vạn bội.

Bây giờ có mấy vấnđề nên thảo luận thêm là mục tiêu củasứ mạng văn hóa của chúng ta tất nhiên là cácthế hệ của cộng đồng, nhưng phảiquan nhứt tâm vào thế hệ trẻ, thế hệthứ hai thứ ba, là thế hệ dễ đánh mấtvăn hóa dân tộc của mình nhứt, vì bị môitrường bao vây, bị hoàn cảnh lung lạc hay cám dỗ.

Vănhóa thì quá rộng lớn mà phương tiện cùa mọinguời cùa mọi giới đều có hạn. Cho nênphải có sự chọn lựa ưu tiên. Ví như ngônngữ và lịch sử là hai môn phải có quyền ưutiên số một. Gìn giữ các nghi lễ truyềnthống của dân tộc như Lễ giỗ Hùngvương, Lễ Hai bà Trưng bà Triệu, LễĐức Trần hưng Đạo…vì những lễnầy thuộc về tín ngưỡng đặc biệtcủa dân tộc V.N., một dân tộc duy nhứt cóđạo thờ Ông Bà.

Ailà người có ID ‘’người chạy giặc CS’’tất nhiên có trách nhiệm thi hành sứ mạng văn hóadân tộc của mình, đầu tiên là cá nhân, cha mẹ, anhem…nhà văn nhà báo, các cơ quan truyền thông, kế là cáctổ chức, các đoàn thể, các hiệp hội…Ờđây nên nói đến các Hội đồng hươngcác tỉnh, các Hội ái hữu trường học, cácHội nghề nghiệp…Trong những khi hoạt độngcó tính cách hội hiệp, có tính cách ái hữu, có tính cáchchuyên môn nghề nghiệp… xin chen vào một tiết mụcvăn hóa, không phải chỉ hát xướng nhảy nhótmà thôi, mà nên thêm một mục học tập lịchsử, vì không gì nghèo nàn cho một bác sĩ hay mộtdược sư, một kiến trúc sư …bằngdốt về sử Việt.

 

TẠM KẾT

Nếugiới hạn văn hóa dân tộc trong mỗi mộtđề tài đạo đức phổ thông là nhân nghĩalễ trí tín, thì thấy trong khi đụng chạm vớivăn hóa khác, nhứt là ở xứ Mỹ đa hình đadạng văn hóa nầy, thì có những cái thuận lợicho sư phát huy cũng như có những cái qúa nguy nan chosự bảo tồn. Thử lấy một vài thí dụ.Nói về chữ nhân thì thấy không một nước nàotrên thế giới biết lo cho người tàn tật,những phế nhân bằng, vì xã hội của họđòi hỏi và chấp nhận như vậy, bởi cáixã hội nầy là xã hội Thiên chúa giáo, một xã hộiduy linh, tin rằng người tàn tật hay phế nhânvẫn có một linh hồn tốt đẹp cầnphải được tôn trọng và thân thương.Cũng nói lên một nhân sinh quan khác là sự liên đớixã hội: một tín ngưỡng và một nhân sinh quan màcác văn hóa khác không có nhứt là văn hóa duy vật.Văn hóa dân tộc V.N. nên lấy đó mà phát huy thêm.Chữ thứ Hai là chữ TRÍ, chính nhờ môi trườngtự do mà văn hóa dân tộc VN sẽ thông minh sángsuốt hơn, con người VN hải ngoại sẽ TRÍhơn (Ngu mà biết mình ngu là trí, ngu mà cho mình trí thì chìnhđó mới thật là ngu). Nghĩ đến ‘đĩnhcao trí tuệ loài người’ bên nhà, mà người dân,nhứt là ở thôn quê chỉ xem TV, báo chí hay nghe Radiocủa nhà nước, chỉ biết chỉ nghe cái gìcủa nhà nước CS muốn cho xem cho nghe, thì làm saomở mang TRÍ được. Chuyện xử cha Lý, bịtmiệng cha Lý…hấu hết cha cố CG không biết gihết, huống chi là chuyện thủ tướng,chủ tịch nhà nước XHCN công du xứ Mỹđược người Việt hải ngoạitiếp đón làm sao…

Nhưng3 chữ NGHĨA LỄ TíN thì lại gặp rấtnhiều thử thách, đó là những khó khăn mà sứmạng bảo tồn chưa dám nói đến chuyệnphát huy phải vất vả đương dầu,nhiều khi không sao khắc phục được.

Trênđây là những ý kiến, những nhận xét thôthiển và rời rạc, nếu có gì bất đồngxin thành thật đưa ra để cùng thảo luậnnếu không nói là chỉ giáo. Nếu được nhưvậy thì quả thật là vạn hạn! Xin cám ơntất cả đã dành thời giờ nghe tôi nói chuyệntrong lúc thời tiết nóng nực nầy!

Xinđa tạ!