Tống Hữu Định: Người ‘khai sơn phá thạch’ nghệ thuật cải lương

  Lê Minh Quốc

PNO - ‘Cải cách hát ca theo tiến bộ/ Lương truyền tuồng tích sánh văn minh’ có thể xem là ‘tuyên ngôn’ của nghệ thuật cải lương.

Nói cách khác, cải lương là cải cách, thay đổi cho tốt hơn. Không phải ngẫu nhiên mà đầu thế kỷ XX, từ “chèo sân đình”, nhiều nghệ sĩ, đứng đầu là Nguyễn Đình Nghị, đã mạnh dạn cải cách, cải tiến chèo để hình thành một hình thức mới, giá trị mới gọi  là “chèo cải lương”.


Nghệ sĩ Tống Hữu Định.

Để có nghệ thuật cải lương, phải nhấn mạnh đến sự ra đời của các ban nhạc đờn ca tài tử - loại hình nghệ thuật hình thành vào cuối thế kỷ XIX ở Nam kỳ lục tỉnh, với sự góp công, góp sức của các thầy đờn lừng danh như Nguyễn Quang Đại, Nguyễn Liên Phong, Nguyễn Tống Triều, Tống Hữu Định, Phạm Đăng Đàn…

Tục hay đờn địch giải buồn/ Cúng cơm đãi tiệc, thơ tuồng xướng ca/ Kim thanh bài bản rập hòa/ Thanh tao nhã hứng miệng ca tay đờn” là những câu thơ ông Nguyễn Liên Phong viết năm 1909, nhằm biểu dương tài năng các nghệ sĩ đờn ca tài tử.

Nhưng không lẽ chỉ một nhóm tài tử, giai nhân “Tay vàng tay ngọc ngón đờn quá xinh” biểu diễn cho nhau nghe? Phải có công chúng đồng cảm, tán thưởng thì người nghệ sĩ mới càng hào hứng. Đây cũng là cách để có thêm thù lao nuôi dưỡng nghệ thuật.

Ông Nguyễn Tống Triều đã thương lượng với chủ nhà hàng Minh Tân, ngang ga xe lửa Mỹ Tho - Sài Gòn, cho đến giúp vui. Nghe tiếng tăm, thực khách ngày càng đông. Nhận thấy nhu cầu của công chúng, Thầy Hộ - chủ rạp hát bóng Casino, phía sau chợ Mỹ Tho - cũng mời ban tài tử này đến biểu diễn vào tối thứ Tư và thứ Bảy, trước khi chiếu bóng.

Bấy giờ, trên sân khấu chỉ có kê bộ ván cho các nghệ sĩ tài tử ngồi hoặc thêm một hai cái bàn, vài ba chậu cây kiểng - nói chung bài trí đơn sơ. Về bài ca, phổ biến và “hớp hồn” công chúng nhất vẫn là bản Tứ đại oán Bùi Kiệm - Nguyệt Nga. Chi tiết này cho thấy truyện thơ Lục Vân Tiên có sức sống rất sâu rộng trong tâm thức người dân miền Nam.

Lúc biểu diễn, các nghệ sĩ đều chít khăn đóng, mặc quốc phục chỉnh tề, ngồi yên. Các nghệ sĩ chưa ý thức rằng, ngoài giọng ca điêu luyện, công chúng còn muốn xem họ thể hiện điệu bộ phù hợp với tình huống, tính cách nhân vật.

Người sớm nhận ra điều then chốt này là ông Tống Hữu Định, tục danh ông Phó Mười Hai - sinh năm 1869 tại làng Long Châu (tỉnh Vĩnh Long) vốn dòng dõi Tống Phước Hiệp - công thần của chúa Nguyễn.

Năm 1915, từ Sài Gòn về Vĩnh Long, ghé lại Mỹ Tho, ông có xem cô Ba Đắc ca Tứ đại oán Bùi Kiệm - Nguyệt Nga cực duyên dáng: “Kiệm từ khi thi rớt trở về/ Bùi Ông mắng nhiếc nhún trề:/ “Cũng tại mày ham bề vui chơi”/ Kiệm thưa: “Tài bất thắng thời/ Con dễ nào không lo bề công danh/ Tuổi con còn xuân xanh/ Công ơn cha mẹ, con chưa đáp đền, đó cha ôi”.

Rõ ràng, trong lời ca giữa Bùi Ông và Bùi Kiệm có đối thoại, nhưng cô Ba Đắc chỉ ngồi yên như lúc ca mọi bài khác, phần nào làm giảm sự hào hứng của công chúng.

Trở về Vĩnh Long, trong buổi chơi nhạc tại nhà mình, ông Tống Hữu Định đã tổ chức ca bài Tứ đại oán Bùi Kiệm thi rớt trở về theo lối mới. Các ông giáo Du đóng vai Bùi Ông, ông giáo Diệp Minh Ký trong vai Bùi Kiệm và cô Ba Định trong vai Kiều Nguyệt Nga “vừa ca vừa ra bộ” - vừa hát vừa thể hiện động tác hình thể hợp với lời ca.


Một ban nhạc đờn ca tài tử xưa.

Từ Tứ đại oán Bùi Kiệm - Nguyệt Nga, các soạn giả phải “ca kịch hóa bài Tứ đại” bằng cách sửa đổi câu ca theo lối vấn đáp: Bùi Ông đương ngồi trong phòng khách, Bùi Kiệm ở ngoài bước vào xá một cái. Bùi Ông (hỏi): “Sao việc thi cử thế nào con?”. Bùi Kiệm (vô ca Tứ đại lớp đầu): “Dạ thưa cha, con nay thi rớt trở về”. Bùi Ông (ca tiếp): “Kiệm à, nghe qua tao tức tối trăm bề/ Cũng tại bởi mày, sao ham bề vui chơi?”. Bùi Kiệm nối theo: “Thưa cha, tài bất thắng thời/ Con dễ nào không lo bề công danh/ Tuổi con còn xuân xanh/ Công ơn cha mẹ, con chưa đáp đền, đó cha ôi!”.

Kiểu cách tân “ca ra bộ” đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đó, nó không còn bó gọn ở Vĩnh Long mà dần lan tỏa rộng đến Sa Đéc, Vũng Liêm... Có thể nói, sáng kiến quan trọng này là gạch nối từ đờn ca chuyển dần sang hình thái diễn xướng, buộc người nghệ sĩ không chỉ rèn luyện về thanh âm mà còn phải nỗ lực trong cách biểu cảm của hành động.

Giai đoạn chuyển biến từ “ca” đến “diễn (ra bộ)” - chính là bước ngoặt quyết định, là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của một loại hình nghệ thuật mới có tên: sân khấu cải lương.

Trải qua năm tháng, tiếp theo hình thức “ca ra bộ” là “hát chập” - hình thức liên ca, gồm nhiều bài ca nối tiếp nhau, có nhiều động tác, lồng vào đó là một cốt truyện ngắn, có ý nghĩa, có nội dung.

Do đáp ứng nhu cầu thưởng thức và đòi hỏi của công chúng, ca ra bộ và hát chập ngày càng phát triển. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, từ vị trí “phụ diễn” hết sức khiêm tốn, màn Bùi Kiệm - Nguyệt Nga được dựng thành vở ca kịch - vở Lục Vân Tiên tức Nguyệt Nga cống Hồ - vở cải lương đầu tiên trên sân khấu thầy Năm Tú tại Mỹ Tho, do soạn giả Trương Duy Toản biên soạn.

Hiện nay, tại TP.HCM có con đường mang tên Tống Hữu Định. Những nghệ sĩ tiên phong “khai sơn phá thạch” để tạo dựng nên loại hình nghệ thuật cải lương sẽ còn mãi trong trí nhớ người đương thời. Cải lương đã bước qua cột mốc thời gian 100 năm, chắc chắn sẽ tồn tại mãi…