Ba nó không biêt làm nghề chuyên chở bằng xe bò từ lúc nào nhưng người trong xóm gọi ông là chú Tư xe bò – Cụ Phó - một nhân vật được mọi người kính nể trong xóm, cụ vào Nam từ Nam Định, nghe nói cụ đã từng giữ chức ông Phó cho hảng tàu đi đại dương của Pháp Charguers Réunis - không hiểu sao lại gọi ông với một danh từ dí dỏm ông Tư “pilot” xe bò. Ba thằng Cưng thỉnh thoảng cho nó lái xa bò ở nhửng khúc đường vắng khi xe không chở gì, chú Tư sống bằng nghề chở vật dụng xây nhà vì đồ nặng không tiện dùng xe ba bánh.
Khi rảnh rối thằng Cưng hay rủ bạn đi tắm sông ở cầu Bình Lợi, trong những nhánh sông nhỏ bao quanh là những rặng dừa nước, nhìn ra phía xa thì thấy sông Saigon. Sông khúc gần cầu Bình Lợi nước chảy xiết, nhiều chổ nước xoáy, thỉnh thoàng có nghe người chết mà người ta gọi là bị ma da kéo. Mấy đám nhỏ thường rủ nhau chơi đá banh ở sân vận động Lê văn Duyệt (giờ không còn nửa) thỉnh thoảng lại lén nhà đi tắm sông luôn, phần đông đứa nào cũng biết lội lại dùng bập dừa để nổi nên cũng khá an toàn. Tắm xong chạy về nhà thì quần khô hết nên gia đình không hay biết.
Hình 1 Tuổi thơ trong xóm
Hình 2 Xe bò trên đường Lê Lợi khoảng đầu thế kỷ 20
Đường làng 15 (đường Lê Quang Định) lúc bấy giờ hầu hết chỉ có người đi xe đạp, thỉnh thoảng có vài chiếc mobylette hay xe nhà binh của Pháp chạy qua, lẫn tiếng xe thổ mộ lóc cóc trên đường. Khoảng đầu thập niên 50, phương tiên di chuyển chính là thổ mộ. Xe thỗ mô (xe làm bằng gỗ có hai bánh cũng bằng gỗ hai bên thùng xe, thường sơn màu nâu đậm rất thịnh hành ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn, Chợ Cầu, Gò Vấp, Bà Chiểu, chợ Đất Hộ (Đakao) Tân Định ra tận đến Sài Gòn, xe nào cũng có 4 cái mốc, mỗi bên hai cái bên hông xe để người đi treo dép hoặc gồng gánh. Ai đi xe thổ mộ củng phái ngồi xếp bằng, co ro trong thùng xe, xe chật dĩ nhiên chuyện cọ sát với nhau là thường, anh nào còn trai tráng thường phải ngồi phía sau, hoặc ngồi phía trước đối diện với anh lái xe thổ mộ.
Người đi thường là bạn hàng mang hàng xuống từ Hóc Môn, Bà Điểm, chợ Cầu, trái cây, hoa, rau, trầu cau, thuốc rê Gò Vấp.
Trước khi tới quận lỵ Gò Vấp, có ga xóm Thơm (tên địa phương, nhưng cũng gọi là tên ga Gò Vấp). Ga Gò Vấp là một ga nối vì từ ga này đi ra các tỉnh miền Trung, Nha Trang, đi Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, dĩ nhiên đi ra Sài Gòn (ngừng tại ga xe lửa Mỹ (Mỹ Tho, cũng gọi là ga Sài Gòn, bây giờ là công viên 23/9 gần chợ Bến Thành)-rồi từ ga Saigon đi Chợ Lớn Bình Tây hay đi Mỹ Tho.
Tuyến đường Gò Vấp Saigon được đưa vào xử dụng ngày 7/9/1897, lúc đầu chạy bằng nưóc sau bằng điện, từ năm 1913.
Cũng từ sau 1913 các tuyến đường khác được xây dựng từ Gò Vấp đi Hóc Môn, Gò Vấp đi Lái Thiêu-Thủ Dầu Một. Từ chợ Bình Tây Chợ Lớn đi Phú Nhuận-Dakao-Tân Định.
Hình 3 Ga Xóm Thơm (Gò Vấp Xưa, đầu thế kỷ 20)
Hình 4 Chợ Gò Vấp đầu thế kỷ 20
Hình 5 Chợ Gò Váp cuối thập niên 1950?
Rạp Đông Nhì là rạp bình dân, chiếu toàn phim cũ nhưng mới hơn Lạc Xuân, có đặc điểm hát thường trực, lúc nào mua vé vào xem và xem bao lâu cũng được.
Rời Ga Đông Nhì thì đến ga Xóm Gà, ga này có mái che và xây bằng gạch nằm trước tiệm tạp hóa chú Xi. Chú Xi, gia đình ngườì Tàu sang Việt Nam đã lâu nên con cái chú ăn mặc theo kiếu Việt Nam và các con nói tiếng Nam rành rọt, tiệm chú Xi bán tạp hóa nên cái gì cũng có kể cả nước màu (nước đường nấu lên cho có màu nâu đen dùng để kho thịt hay cá,xin đọc bài viết về Xóm Gà trong Blog http://maivantran.wordpress.com)
Sau khi bỏ khách xuống thì xe điện chạy đến ga Bình Hòa, ga này nằm đối diện với cây xăng Bình Hòa hiện tại vẩn còn, mỗi lần xe lửa chạy là có cây chắn ngang hạ xuống chận lưu thông trên đường Nguyễn Văn Học, xe điện tiếp tục chạy qua khu chợ Ngã Tư Bình Hòa, dọc theo đường làng 15-đường Lê quang Định ra Bà Chiếu.
Trước 1960, nơi đây vẫn còn dấu vết ga Bình hòa trên tuyến đường Gò Vấp-chợ Bến Thành
Chợ Bình Hòa tuy nhỏ nay vẫn còn, nhưng mang lại cho Nguyên biết bao kỷ niệm. Bà Nguyên có một chỗ bán trầu cau, rất nổi tiếng trong chợ, chỗ bà là chỗ duy nhất, mằc dù thỉnh thoảng vẫn có cạnh tranh, người ta gọi bà là “bà Mười bán trầu cau” bà là người rộng lượng và biết cách chìều đãi khách hàng, người buôn bán với bà rất trung thành với bà, có chuyện, bà nghỉ thì họ vào tận nhà để mua. Bà quê Hóc Môn, sản phẩm “mười tám thôn vườn trầu” nên bà có móc nối mua cau, trầu tươi từ Hóc Môn Bà Điểm, mua thuốc lá từ Gò Vấp và cau khô từ những tiệm đại lý ở Chợ Lớn đem vể nhà sàng lọc, sắp xếp rồi đem ra chợ. Nguyên thỉnh thoảng đến thăm bà ngoài chợ, bà hay đưa cho Nguyên đem đồ ăn về nhà và mua bánh trái gần đó cho Nguyên ăn, nhất là những món ăn đặc biệt chỉ có bán hôm đó. Có lần chiếc xe đạp của Nguyên đậu gần bà mà cũng bị mất cắp-chiếc xe đạp với “ghi đông” cao đầu tiên của Nguyên!
Lúc chợ tan, những người bạn hàng bán không hết đồ gạ bán cho bà, trái cây đủ loại, cá cua, rau cải, có khi họ đem tới nhà để đổi trầu cau! Nhà Nguyên vì thế cũng ăn thêm món cua luộc hẩu như 2, 3 lần một tuần.
Bà Nguyên hay nuông chiều cháu trai đầu lòng, nên nếu Nguyên bị ba má rầy la thì bà can ngăn, nhưng Nguyên cũng sợ bà vì bà đánh đau lắm.
Bà Nguyên cả đời hy sinh, trong hoàn cảnh luân lý đạo đức khắc nghiệt ngày xưa, bà ở một mình không tái giá mà chẳng có bồ bịch gì từ năm 21-22 tuổi cho đến lúc mất đi được 88 tuổi. Niềm an ủi của bà là ba Nguyên và cô Côi-cô có tên Côi vì khi ông Nội Nguyên chết thì cô còn nằm trong bụng mẹ, cô Côi người có đầu óc phóng khoáng, mạo hiểm rồi cũng sang ở luôn bên Pháp năm 1954. Bà mất trong hoàn cảnh cơ cực của gia đình sau cuộc đổi đời 75 không thấy lại Nguyên cũng như cô Nguyên. Một nén hương lòng và sự khâm phục vô bờ của một người cháu ở phương xa
Từ Ngã tư Bình Hòa, nếu ta đi trên đường Nơ trang Long (Nguyễn văn Học) hướng về Thủ Đức và Bình Dương sẽ phải qua ngã Năm Bình Hòa nơi đây đã xẩy ra cuộc oanh tạc khốc liệt của máy bay trực thăng năm Mậu Thân 68. Ngã năm là giao điểm của hai đường Nơ Trang Long và Phan văn Trị và một đường đi vào xóm Lò Vôi thẳng ra luôn tới rạch nước mà bây gìờ gọi là rạch Bến Bôi. Từ Ngã Năm đường Nơ Trang Long đi thẳng qua cầu Băng Ky đến cầu Bình Lợi.
Đường Nguyễn Văn Học đoạn gần cầu Bình Lợi trước 75 có hãng Vissan-Việt Nam Kỹ nghệ Súc Sản-” sản xuất sản phẩm gia súc theo đường lối dây chuyền và xưởng kỹ nghệ mền len Sakymen (Sài Gòn Kỹ nghệ Mền Len). Từ Nguyễn văn Học quẹo trái về Phan Văn Trị hướng Gò Vấp có công ty lớn may dệt Vinatexco.
Đường Phan văn Trị có hai ngôi chùa với đồng mả bao quanh, chùa Thập Phước (Tập Phước) và chùa Bảo An. Hai chùa này cổ này giờ vẫn còn tuy nhiên đồng mả bao quanh không còn nữa và đất chùa bị thu hẹp rất nhiều. Ngày xưa, ban đêm ít ai đến vùng này vì nghe tiếng nhiều ma. Má Nguyên kể lại chuỵện ngay cả ban trưa, chú tiểu thường thấy bóng người đưa võng cho mình ngủ mà chùa thì vắng lặng chỉ có một mình.
Trên đường này có sân vận động Nguyễn Văn Học (không còn nữa, tiếc thay!) kế đó khu vực nhà thương Nguyễn Văn Học, trước 75, khu bịnh viện được xây dựng lại với Viện Ung Thư và bịnh viện Nguyển Văn Học Gia Định. Khoảng năm 64, khu đất kế bên được người Mỹ giúp xây theo mô hình hiện đại làm trung tâm thực tập Y khoa cho Đại học Y khoa Sài Gòn, trang bị máy móc tối tân để dạy và trị bệnh, sau đổi thành bịnh viện Gia Định-sau 75 có tên là bịnh viện Nhân dân Gia Định. Viện Ung Thư là cơ quan y tế chuyên về ung thư cho cả nước. Viện Ung Thư nay gọi là Viện Ung Bướu đang trong tình trạng quá tải, nên người dân nói vào cửa trước, ra cửa sau thẳng vào nhà Xác. Thật sự phía sau các bệnh viên này là nhà Xác chung.
Gần sân vận động Nguyễn Văn Học, thì có rạp chiếu phim Đại Đồng
Hình 7 Rạp Đại Đồng không còn chiếu phim nữa, bây giờ là nhà in
Hình 8 Khu bơi lội vẫn còn-nhưng đầy nhà cửa
Hình 9 Đại Đồng đường Cao Thắng
Hình 10 Trường trung học Hồ Ngọc Cẩn, sau 75 trường tiểu học Nguyển Đình Chiểu
Hình 13 Toà Bố-Toà Tham Biện- Gia Định khoảng đầu thế kỷ 20 sau Tòa Hành Chánh Gia Định
Đường Bạch Đằng có tên là Hàng Xanh đi ra hướng Thị Nghè, Cầu Sơn. Khúc Cầu Sơn, Bình Qưới xưa là đồng ruộng it người ở chỉ có hảng sắt kỹ nghệ của ông Võ Hồng Nho (một thời bầu gánh cải lương Trăng Mùa Thu với cô đào chánh Bích Sơn, em cô Bích Thuận) thông ra đến sông Sài Gòn. Bây giờ mùa mưa, vùng Thanh Đa, Cầu Sơn, Bình Quới thường bị ngập là chuyện khó tránh, vì nước không có chỗ thoát.
Trên đường Bạch Đằng có rạp chiếu bóng Cao Đồng Hưng, rạp này sinh sau đẻ muộn so với rạp Huỳnh Long trên đường Châu Văn Tiếp (nay Vủ Tùng), gần cửa chính của Lăng Ông. Rạp Cao Đổng Hưng trang bị toàn ghế bằng sắt có lỗ nhỏ, phía sau gần cửa vào thì có cả vài hàng ghế cây, học trò Hồ ngọc Cẩn rất “thân quen” với rạp này, đối với Nguyên kỷ niệm là rệp cắn, vì lần ấy rạp CĐH được biến đổi để hát cải lương, vì cô Nguyên quen với bầu đoàn Thủ Đô nên được mời ngồi hàng ghế đầu, suốt buổi em gái Nguyên cứ cựa quậy, ngồi không yên, một số người ngối gần có vẻ không vui, Nguyên hỏi em thì em nói tại rệp cắn, vì em mặc “jupe”, em còn nhỏ nên chả biết gì về cải lương nên cứ ngọ ngậy bắt rệp, rồi Nguyên cũng thấy rệp cắn, thế là anh em Nguyên xin phép ra về sớm. Lý do cũng dể hiểu vì không ai ngồi hàng ghế đầu khi xem phim, thế là rệp tha hồ làm ổ, chỗ nào đánh hơi có thịt người là …làm luôn.
Hình 16 Lăng Tả Quân 1970
Hình 17 Mộ Tả quân Lê Văn Duyệt và Phu Nhân Đổ Thị Phần
Figure 18 Lăng Ông Tết Tân Mão 2011
Nếu các bạn muốn biết vế Lăng Tả Quân xin vui lòng xem video
http://www.youtube.com/watch?v=fhMzSpmqf98&feature=mfu_in_order&list=UL
Phía Lăng Ông hướng về Đakao, trước khi đến Cầu Bông có một khu vực có cái tên rất huyền hoặc “Khăn đen Suối đờn”
Đây là khu xóm ngày xưa đối diện với trường Lê văn Duyệt. Khu xóm này kéo dài đến gần Cầu Bông, chiều ngang từ ranh giới đường Lê Văn Duyệt (Đinh Tiên Hoàng) đến đường Bùi Hữu Nghĩa. Cả khu này và khu trường Lê Văn Duyêt nằm trong khu đất ruộng nên có nhiều cầu ván để đi, chính trường Lê Văn Duyệt cũng nằm trên khu đất bồi để giảm thiểu chuyện ngập nước thường xảy ra trong mùa mưa và do thuỷ triều của rạch Thị Nghè- mà người địa phương vẫn gọi là sông Cầu Bông. Người xưa cho biết nơi đây là nơi buôn bán loại khăn đen làm ở Suối Đờn, tên một khu du lịch nồi tiếng thời trước 1945 ở Thủ Dầu Một (Bình Dương). Loại Khăn Đen Suối Đờn này được dân Nam ưa chuộng, họ đến đại lý ở đây mua hàng, lâu dần truyền khẩu thành khu Khăn Đen Suối Đờn, chớ không có điển tích gì đặc biệt cả.
Tên Cầu Bông bắc ngang rạch Thị Nghè, nhưng đối với dân xưa ai cũng gọi là sông Cầu Bông không biết do đâu mà có, nhưng có thể ngày xa xưa người ta tụ tập ở bến sông buôn bán bông? Ai là người Sài Gòn xưa có lẻ còn nhớ bài này, nhại theo bài Trăng Rụng Xuống Cầu, một thời nổi tiếng với đôi danh ca cũng là cặp vợ chồng ngoài đời Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết
Té xuống song ướt cái quần ni lông
Vô đây em dù trời khuya anh vẫn đưa em về”
Cho tới bây gìờ không ai biết xuất xứ của nó và vì sao. chỉ có điều nặng mùi Nam rặt, bình dân giáo dục nhưng hậu ý tốt.
Qua khỏi cầu Bông là vào quận Nhất khu Đakao
Đất Hộ-Đa kao
Đa Kao còn gọi là Đất Hộ, thuộc quận nhất Sàigòn, Đakao có rất nhiều trường tư thục nổi tiếng như Huỳnh Khương Ninh (Đường Huỳnh Khương Ninh) giờ vẩn còn, Huỳnh thị Ngà (đường Trần Nhật Duật), Les Lauriers sau đổi tên Tân Thịnh (đường Đinh Công Tráng), Văn Hiến, Việt Nam Học Đường (đường Đặng Tất), trên đường Phạm Đăng Hưng bây giờ là Mai Thị Lựu ngày xưa có trường chuyên dạy Anh Ngữ Trần Gia Độ, có lẽ mở cùng thời với trường dạy Anh Văn Ziên Hồng của hai anh em Lê Bá Kông Lê Bá Khanh ở đường Kỳ Đồng
Xuống dốc cầu Bông trước khi đến Trần Quang Khải có tiệm thịt quay, heo, gà vịt vẩn còn mở đến ngày nay, nhìn xuống sông khoảng thập niên 50s có trại cưa Trần Pháp. Quẹo phải vào đường Trần Quang Khải, phía bên trái có đình thờ với hình ông cọp trên tường và cây da bên trong sân, đối diện xéo một chút là bót TQK và đường hẽm đi vô xóm Vạn Chài, phía ngoài đầu hẻm có trường tư thục Văn Hiến (hiệu trường là Phan Ngô). Kế đó là rạp Văn Hoa và tiệm cà phê Văn Hoa rất thanh lịch kế bên. Râp Văn Hoa sang trọng, có máy lạnh và hệ thống âm thanh tối tân, màn ảnh lớn nhưng giá rẻ hơn Eden hay Rex.
Trần Quang Khải quẹo vào Nguyễn huy Tự là chợ Dakao, gần chợ có con đường nhỏ Trương Hán Siêu nơi đây có đền thờ của cụ Phan Chu Trinh, đi thẳng Phan Chu Trinh băng qua Đinh Tiên Hoàng thì gặp bánh cuốn Tây Hồ, thực sự không có gì đặc biệt nhưng gía bình dân, nơi đây có bán dầu cà cuống.
Nối dài Nguyễn Huy Tự là Phạm Đăng Hưng bây giờ là Mạc Thị Lựu, trên đường này có một chùa cổ, chùa Đakao hay là chùa Ngọc hoàng http://vnexplore.net/destination/253
Hình 20 Chùa Đakao -Ngọc Hoàng Xưa
Hình 21 Chùa Ngọc Hoàng 2011
Đoạn Đinh Tiên Hoàng giới hạn bởi Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) và Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) có nhà ăn Pháp rất nổi tiếng như Chez Albert, La Cigale và hai quán café nổi tiếng Hân và Duyên Anh
Casino Đakao
Hình 22 Casino Dakao
Hình 23 Casino Sài Gòn không còn nữa: bây giờ chỉ là tiệm bán buôn
Trước 75, nêu ai có đến vùng này nhất là đám sinh viên, học sinh lớn ngày xưa chắc đã đến thăm thường thạch chè Hiển Khánh, tiệm này nằm sát Casino Đakao, chuyên bán thạch sợi nhỏ trắng với đá bào,chè đậu xanh nấu đặc, chè thạch đựng trong chén nhỏ, nên đôi khi phải gọi hai chén mới đã. Rồi thì bánh xu xuê, bánh gai, mùa nóng đi đâu về ghé đây là tuyệt. Chủ người Nam trung niên lịch sự với khách (đã lâu rồi không nhớ tên được.) Sau 75 có tiệm chè thạch Hiển Khánh (ở Sài Gòn và Little Saigon) ra mắt bà con -goị là thạch chè nhưng nơi đây bán đủ bánh chè và cũng không phải là của chủ xưa.
Qua khỏi Casino Đakao về phía đường Hiền Vương (bây giờ Võ thị Sáu) rồi quẹo phải vào Nguyển phi Khanh, nơi đây có một quán cơm tấm bì chả nổi tiếng sau có tiêm bán bún than Như Ý, đặc biệt có dầu cà cuống. Chỉ cần nhỏ môt hai giọt tinh dầu cũng đủ hương vị Mùi cà cuống khá mạnh nên không được thông dụng. Cà cuống là một trong những nhóm côn trùng có kích thước lớn nhất hiện nay, có cơ thể dẹt, hình lá, màu vàng xỉn hoặc nâu đất, dài trung bình từ 7-8 cm, có con lên đến 10-12 cm.
Khi còn non cà cuống giống như con gián, mình dài khoảng 7-8cm, rộng 3cm, màu nâu xám, có nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt tròn và to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa cứng.
Cà cuống có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 45cm, gồm có một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu dưới phình to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu chứa nước nầy là hai ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra thụt vào được. Ở dưới ngực, ngay gần phía lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống. Mỗi bọng dài khoảng 2-3cm, rộng 2-3cm, màu trắng, trong chứa một chất thơm, đó là tinh dầu cà cuống. Nhưng chỉ có con đực mới có tuyến này phát triển.
Tinh dầu cà cuống nhẹ hơn nước, cho thoảng ra một mùi đặc biệt gần giống như mùi quế.
(theo Wikipedia)
Cũng đặt tên như vậy, tiệm mì nổi tiếng Cây Nhản, lấy tên cây nhản được trồng trong sân rộng dùng làm tiệm mì đối diện với khu trường tiều học Đakao.
Phía đầu đuờng Hiền Vương trước khi đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi (nay công viên Lê Văn Tám) Đakao có đền đức thánh Trần. Những dịp Tết hay giỗ ông người ta đổ xô vào lễ, gây trở ngại lưu thông trên đường huyết mạch dẫn vào Ngã Sáu-Công Trường Dân Chủ- Theo các nhà khảo cổ, Công Trường Dân Chủ là vùng Mả Ngụy- Mồ chôn tập thể của những người theo Lê Văn Khôi 1833-1835 (ref http://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A3_ng%E1%BB%A5y).
Vốn có tài quân sự mà cũng không màng ngôi vua mặc dù được thôi thúc bời thân sinh Trần Liểu. Ông giúp các vua Trần ba lần đánh tan quân Nguyên – Mông tấn công Đại Việt, Đặc biệt những lần chống Nguyên – Mông lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên – Mông ra khỏi đất nước.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ 3 thành công. Đất nước thanh bình Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lui về sống ở Vạn Kiếp. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm để lập thành phố, bản doanh làm phòng tuyến chiến lược giữ mặt Đông Bắc của Đại Việt. Ông là một anh hùng đởm lược, được nhân dân trong vùng tôn vinh, qúy mến. Muà thu tháng 8, ngày 20 năm Canh tý, Hưng Long thứ 8, tức ngày 5-9-1300 ông mất. Theo lời dặn, thi hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ. Sau khi ông mất triều đình phong tặng là Thái sư Thượng Phụ quốc công Tiết chế Nhân Võ Hưng Đạo Vương. Nhân dân vô cùng thương tiếc người anh hùng dân tộc đã có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc nên lập đền thờ Ông trên nền Vương phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Dân ta kính trọng vinh danh Ông là Đức thánh Hưng Đạo Đại Vương lập đền thờ Đức Thánh Trần ở nhiều nơi.
Từ đền đức thánh Trần, quẹo trái vào đường Phan Tôn bên hông nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi. Đường Mạc Đĩnh Chi ngày xưa có trạm xe đìện
Hình 26 Xe điện trên đường Mạc Đĩnh Chi, nhìn từ nghĩa trang Mạc đĩnh Chi trên đường Phan Thanh Giản (giờ là Điện biên Phủ)
Hình 27 Địa điểm Hội Việt Mỹ xưa, nay Mặt trận Tổ Quốc TPHCM
Song song với đường Mạc Đĩnh Chi có đường Phùng Khắc Khoan có tư gia tòa Đại Sứ Mỹ. Đây là con đường đẹp với nhiều dinh thự, hai bên đường có hàng me to.
Khu Dakao, trên đường Nguyển Bỉnh Khiêm có Thảo Cầm Viên và hai trường trung học nối tiếng Võ Trường Toản (nam) và Trưng Vương (nữ).
Xe điện rời ga Đất Hộ (Đakao) chạy dọc theo đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) rồi quẹo vào đường Mạc Đĩnh Chi (rue de Bangkok) ra đường Thống Nhất (Norodom thời Pháp, nay Lê Duẩn) rồi dọc theo Cường Để, Bến Bạch Đằng (nay Tôn Đức Thắng) rồi quẹo vào Hàm Nghi (de la Somme về chợ Bến Thành.
Ngày xưa đường Phan Đình Phùng nằm cuối khu vực Nguyễn Bỉnh Khiêm (kho đạn cũ, sau lưng đài phát thanh Quân Đội ) và kéo dài ra đến đường Lý Thái Tổ (nay Nguyễn đình Chiểu) Sô 3 Phan Đình Phùng là đài phát thanh Sài Gòn
Đường Đinh Tiên Hoàng bắt đầu từ đường Hồng Thập Tự (bây gìờ là Nguyển thi Minh Khai + Sô Viết Nghệ Tỉnh) về phía Đakao có sân vận động Hoa Lư, về phía đường Thống Nhất (Lê Duẩn) có khu đại học trước là thành lính Pháp rôi thành của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống.
Hình 30 Lối vào thành lính Pháp 1873 xây trên thành cổ Gia Định (xây 1790) trên đường Cường Để-Đinh Tiên Hoàng
Ngày 28/4/1863, Pháp chính thức thông qua dự án xây dựng thủy xưởng Ba Son tại Sài Gòn trực thuộc Bộ Hải quân Pháp. Năm 1884, Pháp cho đào và xây ụ lớn bằng đá, chi phí gần 8 vạn quan. Nhiều công nhân người Việt, trong đó có thợ máy Tôn Đức Thắng đã làm việc ở đây. (http://thodia.vn/xuong-ba-son-ho-chi-minh.html)
Hình 32 Xưởng Ba son thời Pháp-sau là Hải Quân Công Xưởng thời VNCH
Hình 33 Công Trường Mê Linh, thời Pháp Rigault de Genouilly
Hình 34 Công trường Mê Linh khoảng 1910 có tượng của Đô đốc Rigault de Genouilly
Hình 35 tượng Hai bà Trưng thời đệ nhất cộng hòa bị phá sập sau 11/1963
Hình 36
Hình 37 Bào Tàng Viện thời Pháp thuộc nằm trên đường Norodom (nay Lê Duẫn)
Hình 39 Dinh Toàn Quyền 1882-xây từ 1868 đến 1875 theo kiểu Baroque thời Napoleon III
Hình 40 Đường Norodom hậu cảnh là Dinh Toàn Quyền và tượng Gambetta -thống đốc Nam Kỳ 1906
Hình 41 Nơi có tượng Gambette bây giờ là Bồn Hoa sau lưng nhà thờ Đức Bà 2011
Hình 42 Dinh Toàn Quyền 1908
Hình 43 Dinh Toàn Quyền 1942
Hình 44 Dinh Toàn Quyền 1945
Hình 45 Dinh Toàn Quyền 1948
Hình 46 Dinh Độc Lập bị dội bom 1962- Bà Nhu (vợ Ngô Đình Nhu) đang quan sát thiệt hại sau cuộc dội bom của Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử
Hình 47 Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vả chính phủ VNCH xây cất lại 1971
Hình 48 Tấm biển này gắn trên tường của dinh Tổng Thống (nay HT Thống Nhất)
Công Viên Tao Đàn-Vườn Bồ Rô
Tiện đây cũng nên biết trường trung học đầu tiên được Pháp xây dựng gọi là Chasseloup-Laubat nằm trên đường Chasseloup Laubat (trước 75 Hồng Thập Tự, sau 75 Nguyễn thị Minh Khai) sau đổi thành Jean Jacques Rousseau rồi Lê Quý Đôn tới ngày nay.
Hình 49 Trường Chasseloup-Laubat thời Pháp
Hình 50 Trường Lê Quý Đôn năm 2009
Hình 51 Trường Gia Long đầu thập niên 1920
Hình 52 Trường Nguyển thi minh Khai 2011
Hình 53 Pháp Đình Saigòn trên đường Công Lý (nay Nam Kỳ Khởi Nghĩa)
Hình 54 dinh Gia Long thời Pháp
Hình 55 Trước 75, dinh Gia Long được dùng làm trụ sở Tối Cao Pháp Viện
Sở Thú nằm trên đường Nguyên Bỉnh Khiêm, cuối đường Thống Nhất (Lê Duẫn) về phía Đông, đối diện với Dinh Toàn Quyến.
Hình 56 Bên trong khuôn viên của Thảo Cầm Viên có Viện Bảo Tàng Quốc Gia và đền thờ Hùng Vương
Hình 57 Thảo Cầm Viên cạnh rạch Thị Nghè (Arroyo de l’Avalance)
Hình 58 Chuồng Gấu- Sở Thú thời Pháp thuộc 1912
Hình 59 Voi trong sở thú
Hình 60 Đèn Thờ Vua Hùng Vương trong Thảo Cầm Viên thập niên 60
Hình 61 Bảo tàng Viện trong Thảo Cầm Viên thập niên 60
Phía trước nhà thờ Đức Bà người Pháp cho xây tượng đồng Giám Mục Pigneau de Béhaine (Adran) và hoàng tử Cảnh.
Hình 64 Saigòn xe hơi công ty trước 75
Hình 65 Phía trước nhà thờ Đức Bà có tượng Bá Đa Lộc (giám mục D’ Adran) và Hoàng tử Cảnh hướng về đường Tự Do (nay Đồng Khởi) được đặt tại đây 1902, bên tay phải giơ bản hiệp ước Versailles 1787, bảo đảm viện trợ của nước Pháp cho vua Gia Long
Phía sau nhà thờ Đức bà có bùng binh và tượng Gambetta
Hình 67 Hồ Con Rùa thời Pháp thuộc đầu thế kỷ 20
Hình 68 Hồ Con Rùa 1968
Hình 69 Hồ con Rùa 2010
Xe điện chạy dọc theo Cường Để, dọc theo bến Bạch Đằng (nay Tôn Đức Thắng) quẹo phải vào đường Hàm Nghi (De La Somme), chạy ngang trước chợ Bến Thành rồi về ga Saìgòn
Hình 70 Ga Sài Gòn 1881
Hình 71 Đường xe lửa trước chợ Charner tiền thân của chợ Bến Thành (thập niên 1880) nằm trên đường Nguyễn Huệ (Charner)
Hình 72 Bên trong ga Sài Gòn khoảng thập niên 1910
Hình 73 Đường rầy xe điện trước chợ Bến Thành và sở Hỏa Xa Đông Dương
Hình 74 Xe lửa chạy trên đường Hàm Nghi (de La Somme) vào trước chợ Bến Thành rồi quẹo trái vào ga Sài Gòn, bây giờ là khu công viên 23/9
Hình 75 Đường xe điện trước chợ Bến Thành
Hình 76 Dấu tích đường xe điện trên đường Trần Hưng Đạo thời đệ nhất Cộng Hoà trước 1963 (nhìn về phía chợ Bến Thành)
Hình 77 Từ ga Sài Gòn cũng có tuyến đường chạy đến chợ Phú Nhuận, Chợ Tân Định. Đường rầy xe điện trong ảnh đi cạnh tòa nhà Quốc Hội trước 75, chạy từ đường Nguyển Huệ (Charner) Lê Lợi (Bonnard)
Hình 78 Xe điện quẹo mặt vào đường Nguyển Huệ từ Bến Bạch Đằng (Tôn Đức Thắng)
Hình 79 Từ ga Chợ Lớn đi về ga Sài Gòn
Hình 80 Đường rầy xe lửa-lớn nhỏ trên đường Hàm Nghi
Hình 81 Một góc cạnh khác của tuyến đường Hàm Nghi, là tramway (xe điện nhỏ) chạy quanh từ chợ Sài Gòn dọc Hàm Nghi xuống bến Bạch Đằng qua công trường Mê Linh sau tòa Nhà Quốc Hội (nhà Hát Thành Phố bây giờ) dọc theo đường Lê Lợi (Bonnard).
Hình 82 Đường rầy ở công trường Mê linh
Hình 83 Chạy ngang nhà hát thành phố
Hình 84 Xe điện chạy từ đường Lê Lợi (Bonard) ra chợ Bến Thành khoảng 1901
Trưóc 75, cơ sở nghỉ từ trưa thứ bảy, chiều nào thiên hạ cũng đổ xô ra đường, mỗi người tìm vui trong cái ồn ào náo nhiệt cho riêng mình Thú vui tùy túi tiền, ngay cả hoà mình vào dòng người bát phố chỉ cần một cây kem hay môt ly nước mia, kẻ vào nhà hàng Thanh Thế, Kim Sơn, Thanh Bạch, kẻ giàu sang có máu mặt vào Continental, Caravelle, kẻ ngắm nhìn mẫu hàng mới trong Passage Eden để ước mơ, để ước gì mua được tặng nàng.
Hình 85 thời Pháp Thuộc, địa điểm nhà hàng Caravelle là khách sạn Terrasse
Hình 86 Nhà Hàng Continental thời Pháp Thuộc 1931
Hình 87 Tiệm thuốc Tây Pharmacie Normale (nay nhà sách Xuân Thu đường Tự Do)
Hình 88 Thư viện Abraham Lincoln góc Nguyển Huệ-Lê Lợi, trước đó nhà bán và xửa xe Citroen Bannier
Hình 89 Công Ty Bannier trưng bày xe, gần sát bên là rạp Rex truớc 75, bây giờ là khu khách sạn Rex
Hình 90 Thương Xá TAX thời Pháp trước 1948
Hình 91 Thương xá TAX khoảng 1966 với tiệm kem có máy lạnh Pole Nord
Hình 92 Dinh Xã Tây khoảng đầu thế kỷ 20
Hình 93 Dinh Xã Tây 1908
Hình 94 Toà Đô Chánh 1955
Giới sành điệu, ký giả, người lịch lãm thì vào Givral ở góc đường Lê Lơi Tự Do hoặc Brodard trên đường Tự Do (Đồng Khởi) hay La Pagode góc đường Tự Do Lê Thánh Tôn
Hình 96 Brodard thập niên 60
Hình 97 Nay là cà phê Gloria Jeans 2011
Hình 99 Givral khoảng 2000, nay 2011 đả bị phá hủy để làm trung tâm thương mại
Hình 100 Terrasse hotel thời Pháp nay Caravelle
Hình 101 Khách sạn Caravelle khánh thành 12/1959
Hình 102 Nhà hàng La Pagode góc đường Tự Do Lê Thánh Tôn
Hình 105 Kinh đào nằm trước Chợ Charner, gọi là Kinh Lớn vận chuyển cung cấp thực phẩm hàng hóa cho Saigon được xây năm 1860
Hình 106 Kinh Lớn phía trước chợ Charner, chạy dài đến trước dinh xã Tây góc trên trái
Hình 107 Năm 1887 Kinh Lớn bị lấp đi thành đường Kinh Lấp, sau đó đỗi tên thành đường Charner
Hình 108 Chợ Charner vào thập niên 1890
Hình 110 Chợ Bến Thành 1922
Hình 111 Việt Minh đốt cháy Chợ Bến Thành tháng 3 năm 1950
Hình 112 Chợ Saigon-Bến Thành ngày nay
Sài Gòn mưa nắng hai mùa, mưa như có hẹn đến những buối chiều rồi lại đi, rửa sạch thành phố cho gió mát thổi về đón mừng Saigon nhộn nhịp về đêm. Thỉnh thoảng có chút lạnh, sưong sáng những ngày về cuối năm với những đống ung buông khói nhẹ lên mây theo cánh én. Sài Gòn của tôi có đàn én sếp thành hàng bay lúc màn đêm lón lén về thành phố, những chim sẻ ngụp lặn trong vũng nước mưa. Sài Gòn của những bước chân chiều thứ bảy, chủ nhật bát phố ăn kem Lê Lợi, nước mía Viển Đông của những hàng quán la liệt trên vỉa hè, trên đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Tự Do, Lê Thánh Tôn. Sài Gòn của những khu nhộn nhịp sinh hoạt sinh viên như khu Duy Tân, khu đại học Cường Để, của những đêm đặc biệt như đêm Kiến trúc với những ước mơ không bao gìờ thành tựu.
Sài Gòn với những địa danh mộc mạc nhửng xóm bình dân xen lẫn khu của những tòa nhà tráng lệ của giai cấp giàu sang ít người gốc Việt, người Việt phần đông sống vùng ven như Phú Nhuận, Gia Định, Gò Vấp vào Sài Gòn làm việc.
Xóm tôi mùa hè có đom đóm bay, có những em bé bắt bỏ vào chai cho chiếu sáng, có nhửng xe mì dạo gõ lóc cóc khi chiều đến, có xe đá bào nhận, có chú ba Tàu “đổ” xí ngầu bò viên, có bánh ướt tôm khô, bò bía, có những người đầu đội bán rao bánh cam bánh vòng, chị bán chè rao trong đêm “ai ăn chè đậu xanh nước dừa đường cát hôn” hay “ai ăn tàu hủ hôn”…. Sài Gòn sáng sớm với tiếng hát Hoàng Oanh, ban đêm thi văn Tao Đàn của Thi sĩ Đinh Hùng với giọng ngâm Hồ Điêp, Quách Đàm, Hoàng Oanh. Đêm Sài Gòn có vũ trường, có đại nhạc hội, có những đoàn cải lương, có những con đường ăn uống.
Rôi chiến tranh mang đến cho bao nhiêu đau thương, xụp đổ của chia ly của những mảnh tình vừa chớm nỡ đả chết đi.
Rồi cuộc đổi đời có trăm người vui có vạn người buồn. Sài Gòn không còn gìới nghiêm, đông đảo nhộn nhịp, không ánh hỏa châu như xưa nhưng sao cảm thấy xa xôi. Sài Gòn của Nguyên vẩn còn chút gì để nhớ nhưng nhiều chuyện để quên, tìm đâu đôi chút an lành trong công viên, trong vận động trường, trong khuôn viên đại học trong nụ cười ánh mắt của một tà áo bay theo gió heo may. Tất cả hối hả đi tìm …sống.
Những chuyến xe điện đã ngừng hoạt động khoảng đầu năm 1957, nhưng hình ảnh của những đường rầy, những con đường xưa vần còn trong tâm khảm. Dầu gì thì Nguyên vẩn được cơ hội đi về Sài Gòn xưa trong tuyến xe ký ức. Hồi ký này hy vọng sẽ là bản đồ nhỏ cho Nguyên và bạn, những ai đi tìm lại Sài Gòn, một thời được mệnh danh là Hòn Ngọc Viển Đông.