Những chuyển động đa chiều trong đời sống văn học Việt Nam đương đại

NKLT: Nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh đã từng đặt câu hỏi: “Như vậy, biên-giới văn-học trong-ngoài hiện có còn không?”, xin trả lời là VẪN CÒN. Hiện nay (2020) ở trong nước vẫn chưa có (hoặc không dám) công khai nhìn nhận nền văn học Miền-Nam (VNCH) và văn học Hải-ngoại (sau 1975) là một phần không thể tách rời trong nền văn học của Việt-Nam (xin đọc bài Văn-Học Việt-Nam Trong-Ngoài của Nguyễn Vy Khanh).



Sau 1986, đời sống văn học Việt Nam có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Sự giao lưu kinh tế, văn hóa, sự bùng nổ các phương tiện thông tin truyền thông gắn với nhu cầu kết nối các giá trị văn chương quá khứ đã mở rộng không gian sáng tạo cho người cầm bút và không gian đọc cho cộng đồng độc giả. Bên cạnh những chuyển động về mặt thể loại hay sự vận động, đổi mới về các phương diện quan niệm nghệ thuật, nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật…, đời sống văn học Việt Nam còn chứng kiến những hiện tượng thú vị: hiện tượng “trở về” của các nhà văn Việt Nam ở hải ngoại, hiện tượng “trở lại” của dòng văn học đô thị miền Nam trước 1975 hay hiện tượng “ra đi” kiếm tìm không gian viết mới của các tác giả cũ và mới. Chính sự dịch chuyển này đã góp phần làm cho đời sống văn học Việt Nam đương đại trở nên đa dạng, phong phú, nhiều tiếng nói hơn bao giờ hết.

Sự “trở về” của bộ phận văn học Việt Nam ở hải ngoại

“Trở về” ở đây được hiểu theo nhiều khía cạnh. Đó có thể là sự trở về của chủ đề sáng tác, có thể là sự trở về Việt Nam sinh sống và tiếp tục viết của các tác giả, và cũng có thể là sự trở về của những tác phẩm được viết, xuất bản ở nước ngoài[1].

Đầu tiên phải kể đến những cuộc trở về đầy cảm xúc và ý nghĩa của một thế hệ nhà văn vốn đã thành danh trong đời sống văn học miền Nam Việt Nam trước 1975. Trước khi sang định cư ở nước ngoài, họ có tác phẩm ít nhiều được công chúng độc giả yêu mến. Và nay, sau một thời gian vắng bóng, những sáng tác cũ và mới của các bậc lão thành được tái bản, xuất bản trong nước: Kí thác, Những bước chân lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc, Hương quê - Bình Nguyên Lộc; Đêm dài một đời, Những giọt mực - Lê Tất Điều; Sông Côn mùa lũ - Nguyễn Mộng Giác; Tùy bút tuyển chọn, Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời, Giỏ hoa thời mới lớn, Khúc thụy du, Với nhau một ngày nào, Giữ đời cho nhau - Du Tử Lê; Người em xóm học, Em điên xõa tóc, Đêm cỏ tuyết, Lớp lớp phù sa - Kiệt Tấn; Quê hương tôi, Tạp văn - Tràng Thiên...

Sau thế hệ này, văn học Việt Nam ghi nhận sự trưởng thành vượt bậc của thế hệ cầm bút sau 1975 đang hoặc đã từng sống và viết tại hải ngoại. Tác phẩm của họ mang những hệ đề tài, chủ đề, cảm thức, lối viết mới. Khoảng mươi năm trở lại đây, sách của các tác giả này được xuất bản ở Việt Nam khá nhiều, trong đó không ít tác phẩm được dư luận quan tâm và giới nghiên cứu phê bình đánh giá cao, thậm chí có một số tác phẩm được vinh danh tại các giải thưởng thường niên ở trong nước. Có thể kể: Vàng xưa, Quyên, Vườn mộng, Hương mĩ nhân - Nguyễn Văn Thọ; Tìm trong nỗi nhớ - Lê Ngọc Mai; Và khi tro bụi, Mưa ở kiếp sau - Đoàn Minh Phượng; Nơi bình yên chim hót, Chiêm bao thấy núi, Đất khách, Tiểu thuyết đàn bà, Miên man tùy bút, Là mình - Lý Lan; Chuyện mình và người, Chuyện và Truyện - Việt Linh; Gió tự thời khuất mặt, Phố vẫn gió, Truyện cổ viết lại, Cổ tích cho ngày mới, Thương thế ngày xưa - Lê Minh Hà; Cởi gió - Nguyễn Phan Quế Mai; Người trăm năm cũ, Những con chuột thời thơ ấu - Hoàng Khởi Phong; Dòng hải lí - Đỗ Quyên; Trăng nguyên sơ, Đất trời - Nam Dao; Một mình trên đường, Ngã ba đường - Lệ Tân Sitek; Thấy Phật, Chuyện trò, Sợi tơ nhện, Người khuân đá - Cao Huy Thuần; Người đàn bà khác - Trịnh Y Thư; Đốt lò hương ấy, Thư gửi con - Thái Kim Lan; Paris 11 tháng 8, Chinatown, T mất tích, Thang máy Sài Gòn, Chỉ còn 4 ngày là hết tháng Tư - Thuận... Bên cạnh hệ đề tài và chủ đề đặc trưng của văn học di dân như tha hương sầu xứ, cô đơn lạc loài, thân phận con người, khác biệt văn hóa và nỗ lực hòa nhập, xung đột mâu thuẫn và nỗ lực hòa giải hóa giải…, dòng văn học này còn mở rộng sang các đề tài lịch sử, chiến tranh, hậu chiến, cuộc sống đô thị, nông thôn, đời sống trí thức... bằng góc nhìn đa chiều và lối viết tân kì.

Hiện nay ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam hình thành một đội ngũ người cầm bút đồng thời thuộc về hai nền văn hóa: văn hóa Việt Nam và văn hóa của nước mà nhà văn định cư. Họ sinh ra ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài, có cha mẹ là người Việt, lựa chọn tiếng Anh hoặc tiếng nước sở tại làm công cụ sáng tác. Vì không viết bằng tiếng Việt nên tác phẩm của họ không thuộc về văn học Việt Nam, song cũng không thể hoàn toàn “vô can” với Việt Nam. Không ít tác phẩm đặc sắc của những tài năng gốc Việt này được dịch và đến tay độc giả trong nước như Vu khống, Lại chơi với lửa, Thư chết, Tiếng nói, Sóng ngầm, Vượt sóng - Linda Lê, Con thuyền - Nam Lê, Người tị nạn - Viet Thanh Nguyen, Cô gái lai da trắng - Kim Lefèvere, Một phút tự do, Vàng trên biển đá đen - Elena Pucillo Trương, Ba áng mây trôi dạt xứ bèo - Nuage Rose, Người cha im lặng - Doan Bui, Loan - từ cuộc đời của một con chim phượng hoàng - Isabelle Muller...

Ngoài ra, đời sống văn học Việt Nam đương đại còn đón nhận sự “trở về” của các nhà nghiên cứu phê bình qua các công trình nghiên cứu và của các dịch giả qua các dịch phẩm. Sự trình hiện của Nguyễn Hưng Quốc với Văn học Việt Nam từ điểm nhìn hậu hiện đại, Văn hoá văn chương Việt Nam, Mấy vấn đề phê bình và lí thuyết văn học…, Nguyễn Đức Tùng với Thơ đến từ đâu, Đối thoại văn chương, Thơ cần thiết cho ai…, Đoàn Cầm Thi với Đọc “Tôi” bên bến lạ, Thụy Khuê với Phê bình văn học thế kỉ XX… đã phần nào góp tiếng nói riêng khác vào đời sống nghiên cứu phê bình ở Việt Nam. Rồi nhiều tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng thế giới như Ngôn từ - Jean-Paul Sartre, Người tình - M.Duras, Chó hoang Dingo hay là câu chuyện mối tình đầu - Jumvim Phraermn, Đời nhẹ khôn kham - M.Kundera, Huệ tím - Hermann Hesse, Harry Potter - J.K.Jowing… đến tay độc giả Việt qua bản dịch của Thuận, Lê Ngọc Mai, Trịnh Y Thư, Thái Kim Lan, Lý Lan. Những dịch giả người Việt ở hải ngoại này được coi là những sứ giả văn hóa đưa các giá trị văn chương nhân loại đến với công chúng trong nước.

Sự “trở lại” của dòng văn học đô thị miền Nam trước 1975

Sau 1945, do hoàn cảnh lịch sử, văn học Việt Nam chia tách thành hai phần, khiến việc nhận diện, đánh giá một cách toàn diện bức tranh tổng thể nền văn học nước nhà trở nên có nhiều khiếm khuyết. Sau 1975, hai miền thống nhất, với chủ trương, tinh thần kết nối, hòa hợp, hòa giải dân tộc, dòng văn học đô thị miền Nam đang dần trở lại như là một bộ phận không thể tách rời của thực thể văn học Việt Nam.

Khoảng hơn mười năm trở lại đây, trong nỗ lực chung của không ít người, từ các nhà văn, học giả, nhà nghiên cứu phê bình đến các nhà xuất bản, đơn vị phát hành, công ti văn hóa, truyền thông, cùng sự ủng hộ nhiệt thành của công chúng độc giả trong cả nước, tác phẩm của các tác giả miền Nam trước 1975 được tái bản ngày một nhiều, trong đó có cả những sáng tác một thời bị liệt vào danh sách “cấm lưu hành”. Tác phẩm của các nhà văn tiêu biểu như Vũ Hạnh, Sơn Nam, Vương Hồng Sển, Trang Thế Hy, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc, Vũ Bằng, Nguyễn Văn Xuân, Lý Chánh Trung, Đinh Hùng, Nguyên Sa, Nhất Hạnh, Bùi Giáng, Trụ Vũ, Phạm Công Thiện, Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong, Lê Tất Điều, Nhật Tiến, Tràng Thiên, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Vỹ, Du Tử Lê, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Mường Mán... được tái xuất và dự phần vào dòng chảy đời sống văn học Việt Nam đương đại. Từ năm 2003, Nhà xuất bản Trẻ đã mua toàn bộ tác quyền sách của Sơn Nam, Trang Thế Hy, một phần tác phẩm của Vương Hồng Sển và nhiều nhà văn khác, đến nay đã tái bản phần lớn đầu sách của các tác giả. Từ năm 2007, Công ti Văn hóa Phương Nam phối hợp với các nhà xuất bản chủ trương Tủ sách “Các tác giả miền Nam trước 1975” và Tủ sách “Tuổi Hoa”. Mở đầu cho dự án này là việc in lại bộ tiểu thuyết ba tập Nguyệt Đồng Xoài của Lê Xuyên và bốn tập truyện ngắn Tiếng sáo người em út, Đôi mắt trên trời, Nhan sắc, Cũng đành của Dương Nghiễm Mậu. Các tủ sách này tiếp tục được bổ sung thêm tác phẩm của các tác giả như Trần Thị NgH, Nguyễn Thị Thụy Vũ... Ngoài những nhà xuất bản truyền thống hay các đơn vị phát hành sách có tiếng, xuất hiện thêm nhiều công ti văn hóa, truyền thông tư nhân liên kết với các nhà xuất bản chọn nguồn sách này để tái bản, tiêu biểu như Công ti cổ phần Văn hóa và truyền thông Nhã Nam, Công ti cổ phần sách Tao Đàn, Saigonbooks, DT book, Phan book... Không chỉ mảng sáng tác đã kể, nhiều kiệt tác văn học thế giới được phổ biến trong đời sống văn học miền Nam qua bản dịch tài hoa của các dịch giả miền Nam trước 1975 cũng được tái bản liên tục. Ở mảng sách khảo luận, nghiên cứu, không ít công trình công phu, đồ sộ về văn hóa, văn học, lịch sử, triết học, tôn giáo của các học giả uy tín cũng được khôi phục và tiếp tục khẳng định vị trí, giá trị trong đời sống văn hóa, tinh thần người Việt[2].

Song song với việc tái bản, xuất hiện ngày càng nhiều công trình nghiên cứu phê bình mới với quy mô khác nhau của các tác giả như Huỳnh Như Phương, Nguyễn Thị Thu Trang, Trần Hoài Anh, Bùi Bích Hạnh, Võ Văn Nhơn, Nguyễn Thị Phương Thuý, Nguyễn Mạnh Tiến… nhằm nhận diện, phân tích, đánh giá dấu ấn, thành tựu, vị trí của bộ phận văn học này trong đời sống văn học nước nhà. Đặc biệt, chân dung, sự nghiệp sáng tác của một số tác giả miền Nam trước 1975 đã được ghi nhận trong bộ Từ điển văn học (bộ mới 2004, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên), đánh dấu sự hiện diện có tính chính thống, quy phạm của họ trong lịch sử văn học dân tộc.

Sự “ra đi” kiếm tìm không gian viết mới

Trong những năm gần đây, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế có xu hướng trỗi dậy mạnh mẽ, tác động không nhỏ đến đời sống văn học Việt Nam. Thế giới trở thành “ngôi làng toàn cầu”, cơ hội bước ra vùng đất mới ngày càng dễ dàng, khả năng tiếp cận thông tin của mỗi cá nhân từ đó mà nhanh chóng, thuận lợi hơn. Riêng với người cầm bút, đây không đơn thuần là sự dịch chuyển không gian địa lí, mà còn là sự mở rộng biên độ không gian sáng tạo.

Không ít tác giả chuyên và không chuyên do yêu cầu của công việc, học tập, gia đình hay qua những chuyến du lịch, bằng khả năng quan sát tinh tế, sự nhạy cảm sâu sắc, niềm hứng khởi nhiệt thành của người nghệ sĩ đã sáng tạo nên những trang viết “trên đường” đậm màu sắc du kí. Đây cũng là lúc văn đàn Việt nở rộ thể loại phi hư cấu như du kí, tản văn, kí sự, và những tác phẩm hư cấu pha trộn màu sắc du kí.

Trong số những tác giả ghi dấu ấn và thành tựu ở thể loại du kí, có nhiều cây bút quen thuộc với độc giả. Trước khi và đồng thời viết du kí, họ đã sớm được biết đến với các tác phẩm hư cấu đặc sắc, có thể kể như Hồ Anh Thái, Văn Cầm Hải, Di Li, Phan Việt, Dương Thụy, Trang Hạ... Với Hồ Anh Thái, trong tư cách là nhà ngoại giao Việt Nam, ông đã sống và làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có nhiều năm nghiên cứu về Ấn Độ, Ba Tư. Nhờ những kiến thức thâm sâu của một tiến sĩ văn hóa phương Đông, cùng sự nhạy cảm, tài hoa của người nghệ sĩ, ông đã sáng tạo nên những tác phẩm đậm chất du kí - văn hóa: Namaska! Xin chào Ấn Độ, Salam! Chào xứ Ba Tư, Người bên này trời bên ấy. Với Dương Thụy, những khóa du học tại Bỉ, Pháp, Anh..., sau đó là những vị trí làm việc tại các công ti đa quốc gia đã giúp chị trở thành một trong những cây bút trẻ có vốn tri thức, vốn sống dày dặn đủ để tiếp cận, sáng tạo về mảng đề tài mang đậm dấu ấn cá nhân: cuộc sống của giới sinh viên Việt Nam ở trời Âu. Các tác phẩm lấy bối cảnh nước ngoài của chị được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt, trong đó có không ít best-seller như Oxford thương yêu, Bồ câu chung mái vòm, Cáo già gái già và tiểu thuyết diễm tình, Venise và những cuộc tình Gondola, Nhắm mắt thấy Paris, Cung đường vàng nắng... Phan Việt cũng là trường hợp tương tự. Chị từng học tiến sĩ tại Đại học Chicago, hiện giảng dạy đại học tại Mĩ. Bộ sách Bất hạnh là một tài sản gồm Một mình ở châu Âu, Xuyên Mĩ Về nhà là kết quả của những chuyến đi, sự nghiền ngẫm, đào xới bản thể đến tận cùng của nhà văn. Phan Việt đã đưa người đọc tới hành trình của riêng mình - trở về với cội nguồn và trở về với bản thể tâm linh. Di Li và Trang Hạ cũng là hai tác giả đáng lưu ý, cùng với những sáng tác hư cấu, họ đã thể nghiệm thể tài du kí và nhanh chóng tạo dấu ấn: Đảo thiên đường, Nụ hôn thành Roma, Bình minh ở Sahara (Di Li), Những đống lửa trên vịnh Tây Tử, Chồng xứ lạ (Trang Hạ).

Bên cạnh các nhà văn trên là khá đông tác giả trẻ viết du kí, ngay từ những sáng tác đầu tay họ đã lựa chọn du kí và nhanh chóng đạt được thành tựu. Có thể kể đến những tác giả và tác phẩm tiêu biểu như Ngô Thị Giáng Vân với Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương, Bánh mì thơm cà phê đắng, Hoàng Yến Anh với Dưới nắng trời Âu, Trương Anh Ngọc với Nghìn ngày nước Ý nghìn ngày yêu, Phút 90++, Nước Ý - câu chuyện tình tôi, Hẹn hò với Paris, Bùi Mai Hương với Hẹn hò với châu Âu, Trần Hùng John với John đi tìm Hùng, Huyền Chíp với Xách ba lô lên và đi, Giấc mơ Mĩ - đường đến Stanford, Nguyễn Phương Mai với Tôi là một con lừa, Con đường Hồi giáo, Đinh Hằng với Quá trẻ để chết: Hành trình nước Mĩ, Nguyễn Thiên Ngân với Đường còn dài còn dài, Tiến Đạt với Lữ khách gió bụi xa gần, Nguyễn Văn Mỹ với Ngày đàng sàng khôn, Nguyễn Tập với Từ rừng thẳm Amazon đến quê hương Bolero...

Có thể nói, mỗi tác phẩm du kí là kết quả của hành trình đến với những miền không gian lạ, lúc này cả thế giới được thu về trong một cái nhìn, một cảm nhận, một suy nghiệm riêng khác. Nhờ vậy, hệ đề tài, chủ đề, cảm hứng trong sáng tác của các tác giả nói riêng, của văn chương Việt đương đại nói chung được mở rộng: bức tranh thiên nhiên, cuộc sống, văn hóa, con người của những vùng đất lạ; trải nghiệm cá nhân và nỗ lực kết nối; bản sắc và hòa nhập; vùng đất mới và niềm đau đáu quê nhà; shock văn hóa và ý chí vượt thoát; sự trở về với cội nguồn văn hóa và trở về với chính mình…

Không chỉ là những chuyến đi, trải nghiệm cá nhân, mà hằn trong mỗi trang viết là dấu ấn cá nhân góp phần làm nên nét đặc sắc của nghệ thuật du kí đương đại. Hồ Anh Thái thâm sâu và dí dỏm, Phan Việt nữ tính và giàu suy tư, Di Li phiêu lưu và tươi trẻ, Trang Hạ mạnh mẽ và quyết liệt, Dương Thụy trữ tình và sâu lắng, Huyền Chíp gần gũi và phá cách, Trương Anh Ngọc sôi nổi và đam mê, Hùng John giản dị và hài hước, Phương Mai cá tính và phóng khoáng... Ẩn sâu trong đó là khao khát khám phá, dấn thân phiêu lưu cùng sự nghiền ngẫm, suy tư, tất cả được kết tinh trong thứ ngôn ngữ tự nhiên, giản dị, mộc mạc.

Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, sự hỗ trợ của internet và công nghệ PR, những năm gần đây thể loại du kí trỗi dậy, thu hút một lượng độc giả tương đối lớn. Tuy vậy, không ít tác phẩm khiến người đọc phải hoài nghi về sự trung thực của người viết, tính xác thực của sự kiện. Một số tác phẩm chỉ mới dừng lại ở những trang ghi chép rời rạc, những cảm nghĩ hời hợt, thiếu chiều sâu suy tư, thiếu chiều rộng kết nối, và chưa nhiều phẩm chất nghệ thuật, giá trị thẩm mĩ. Để văn học du kí thoát khỏi định kiến về một thể tài ”mì ăn liền”, dễ nhớ nhanh quên, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, đòi hỏi ở người viết không chỉ kĩ năng thích nghi thích ứng với cái mới cái khác, sự dấn thân mạo hiểm, mà còn độ dày văn hóa, độ sâu kiến thức.

Có thể coi hiện tượng “trở về”, “trở lại” hay “ra đi” như là hành trình dịch chuyển không gian sáng tạo của các thế hệ nhà văn và không gian tiếp nhận của độc giả Việt. Nhờ đó hệ đề tài, chủ đề và lối viết trong tác phẩm của các tác giả trở nên đa dạng, nhiều chiều; đồng thời, người đọc có cơ hội tiếp cận với những sinh thể nghệ thuật đặc sắc từ quá khứ đến hiện tại. Những hành trình tưởng như đối nghịch nhau, song lại chung nguồn cảm hứng (quê hương và nỗi đau đáu quê nhà, bản sắc và hội nhập, nhân thân và nhân dạng, bản thể và phận người), niềm khao khát khám phá kiếm tìm cái mới cái khác, nỗ lực gắn kết các bộ phận văn học dân tộc và hòa nhập dòng chảy văn học thế giới...

________________

[1] Xem thêm: Trần Lê Hoa Tranh (2016), “Hiện tượng đi và về của các nhà văn đương đại Việt Nam”, in trong Văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế (tập 1, Nguyễn Đăng Điệp chủ biên), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.273-282.

[2] Xem thêm: Huỳnh Như Phương (2016), “Sách ở miền Nam trước 1975 được tái bản”, in trong Hãy cầm lấy và đọc, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr.130-134.