Phật giáo

Trong Tam Giáo – Khổng, Lão, Phật-  có lẽ Phật giáo có ảnhhưởng lớn lao, sâu đậm và lâu dài nhất trong đờisống người dân Đông Nam Á. Tuy xuất phát từ ẤnĐộ nhưng Phật giáo lại có ảnh hưởngrất mạnh trong đời sống của ngườidân Trung Hoa hơn cả hai tôn giáo xuất phát tại đâylà Khổng giáo và Lão giáo. Sở dĩ Phật giáo dễ đisâu vào lòng người như vậy là vì Phật giáo có tínhcách một tôn giáo thật sự hơn hai đạo Khổngvà đạo Lão, và tôn giáo tín ngưởng là một nhu cầucần thiết trong đời sống của con ngườicũng như nhu cầu ăn uống để sinh tồn.

Có chùa chiền làm nơi lễbái thờ phượng để cho thập phương bátánh và phật tử đến cầu nguyện, van vái, cúngkiến, có đủ thứ kinh kệ để mọi ngườitụng niệm theo tiếng mỏ, tiếng chuông, có các vịtăng ni để trụ trì và hướng dẫn việcthi hành Phật sự cũng như giảng dạy Phậtpháp cho chúng sinh, đó là những yếu tố cần thiếtphải có của một tôn giáo. Phật giáo còn dễ đisâu vào lòng người vì khởi điểm của triếtlý nhà Phật là một nhận thức tâm lý rất sát vớiđời sống thực tế của con người: nỗikhổ đau.

Từ lúc mới sinh ra cho đếnkhi lìa đời, ai ai cũng đều có trải qua nhữngcơn đau khổ về vật chất (thể xác) cũngnhư tinh thần không nhiều thì ít. Tuổi đời càngchồng chất thì kinh nghiệm khổ đau càng nhiều,càng thắm thía. Từ những kẻ khốn cùng cho đếnnhững kẻ giàu sang quyền thế ở đời khôngai không nếm mùi đau khổ. Kinh nghiệm đó PhậtThích Ca cũng đã từng trải qua và chính kinh nghiệmđó đã làm khởi điểm cho những suy tư củaNgài.

Thích Ca Mâu Ni là danh từ phiên âmtừ chữ Phạn “Sakyamuni”. Sakya là tên một bộ lạcở chân núi Hy Mả Lạp Sơn (Hymalaya) hồi xưa.Muni là bậc hiền triết, bậc giác ngộ. Sakyamuni làbậc hiền triết giác ngộ của dân Sakya. Thích Ca MâuNi tên thật là Siddarta, họ là Gautama, ra đời vào năm563 trước Tây lịch tại thành phố Kapilavastu. Ngàilà con trai của vua Tịnh Phạn. Ngài có vợ là Yashodharavà có một người con trai tên là Rahula. Tuy đượcsống trong cảnh nhung lụa và được hưởngmột nền giáo dục vương giả của triềuđình từ lúc lọt lòng mẹ nhưng thái tử Siddartavẫn có nhiều nỗi ưu tư về cuộc sốngcủa con người. Qua những lần đi dạo ởbốn cửa thành Ngài đã thấy hình ảnh của sựgià nua, sự ốm đau bệnh tật, sự chếtchốc, cũng như hình ảnh của người tu sĩ.Ba hình ảnh trước là ba hình ảnh khổ đau chỉcó hình ảnh sau cùng thì có thể là hình ảnh của sựgiải thoát khỏi cảnh đau khổ. Điều đókhiến Ngài từ bỏ cuộc sống nhung lụa vàngson, từ bỏ vợ đẹp con thơ, dấn thân vàocon đường tu hành theo lối khổ hạnh củaphái khổ tu thời bấy giờ.

Con đường tu hành khổhạnh đó đã làm cho Ngài trỡ nên kiệt sức màchẳng tìm được ánh sáng của chân lý. Ngài bắtđầu nhận thức rằng con đường khổtu và cuộc sống khoái lạc trần tục là hai thái cựcmà con người cần phải xa lánh nếu muốn điđến giải thoát thật sự. Ngài lựa chọncon đường trung dung, giữa hai thái cực đó. Ngàitiếp tục tu hành nhưng không khổ hạnh. Ngài suy tưthiền định để tìm ra chân lý. Sau 11 năm họcđạo, tu hành, và 49 ngày tọa thiền dưới gốccây bồ đề, Ngài đạt đến chổ hoàntoàn giác ngộ. Ngài đã tìm thấy được chân lý  Sau khi giác ngộ, Ngài bắt đầuthuyết giảng về những chân lý mà Ngài đã tìm ra. Đólà bốn chân lý được nhà Phật gọi là “TứDiệu Đế” (The Four Noble Truths), bốn chân lý tốithượng trong tư tưởng Phật Giáo.

           

1. TỨ DIỆU ĐẾ

Chân lý thứ nhất hay KHỔĐẾ, cho rằng sống là khổ. Đời là bểkhổ, nước mắt của chúng sanh trong ba ngàn thếgiới họp lại bằng nước trong bốn biển.Có ai sống mà không khổ đâu? Không nhiều thì ít nhưngai cũng phải khổ cả. Khổ về vật chấttức là những đau đớn về thể xác nhưbị vật nhọn đâm vào da thịt, đau bụng, đauđầu, v v . . . Khổ về tinh thần như nhớnhung, buồn bã, sầu muộn, ưu tư, thất vọng,chán nản, v v . . . Muốn mà không được là đaukhổ, được rồi lại muốn thêm bắtmình phải làm việc nhiều hơn là đau khổ, phảigần gũi những gì mình không thích là đau khổ, phảixa cách những gì mình yêu thích là đau khổ. Sanh ra là đaukhổ, chết cũng là đau khổ. Đời là bểkhổ là vậy.

Chân lý thứ hai, hay TẬP ĐẾ,cho rằng nguồn gốc của sự đau khổ là lòngham muốn, là tính khát khao của con người. Muốn cónhiều tiền của, muốn có quần áo, đồ đạcsang trọng, đắt tiền, muốn có nhà cao cửa rộng,muốn có xe cộ lộng lẫy, muốn có vợ đẹp,muốn có danh vọng ở đời. . . . tất cảnhững ham muốn đó đều là nguồn gốc củasự đau khổ của con người. Thèm muốn, khátkhao, khoái lạc là đầu mối của đau khổ.Thèm muốn sự sống sẽ dẫn đến sự đầuthai, tái sanh, mà sanh là khổ, cho nên muốn sống, ham sốngcũng là đầu mối của đau khổ ở đời.

Chân lý thứ ba, hay DIỆT ĐẾ,cho rằng muốn thoát khỏi cảnh khổ thì phảidiệt hết lòng ham muốn. Đừng khát khao danh vọng,đừng ham muốn của tiền, đừng đòi hỏinhà cao cửa rộng, đừng ước mơ vợ đẹpcon ngoan, như vậy là tránh được cho mình sựthất vọng, chán chường, tránh được nhữnghoạt động mệt nhọc, những lo lắng ưuphiền, những xung đột, tranh chấp nguy hại. Đừngthiết tha gắn bó với cái gì cả thì tránh đượcsự đau buồn khi xa cách, biệt ly, hay mất mát.

Chân lý thứ tư, hay ĐẠOĐẾ, vạch ra con đường mà người taphải theo để diệt dục, để không còn hammuốn, để giải thoát khỏi khổ đau triềnmiên.  Con đường diệtdục, giải thoát đó bao gồm tám điểm gọilà BÁT CHÁNH ĐẠO, hay tám con đường đúng mà ngườita phải đi theo. Bát Chánh Đạo gồm : (1) chánh kiến(thấy đúng), (2) chánh tư duy (nghĩ đúng), (3) chánhngữ (lời nói đúng), (4) chánh nghiệp (tạo dựngcái nhân tốt, đúng), (5) chánh mạng ( sống đúng),(6) chánh tinh tấn (tiến bộ đúng), (7) chánh niệm(quan niệm đúng), (8) chánh định (quyết địnhđúng). Bát chánh đạo gồm những hướng điđúng mà con người cần phải giữ đểcó thể thoát khỏi cảnh khổ. Quan trọng nhấtlà nhìn thấy cho đúng tức nhận thức đúng, suytư đúng, để có quan niệm đúng về sựvật và sự việc ở đời để có thái độvà hành động đúng (xứng hộp) trên đườnggiải thoát. Nhìn thấy hay nhận thức đúng là điểmbắt đầu quan trọng liên hệ tới triết lýsâu xa của nhà Phật

           

2. VÔ THƯỜNG

Mọi vật trên trần gianđều biến đổi, không có vật nào đứngyên mãi ở nguyên một trạng thái. Sự di động,biến đổi đó, có thể rất chậm hay rấtnhanh, là một định luật không thể tránh được.Biển xanh trỡ thành cồn dâu trong hằng chục hay hằngngàn năm, nhưng bức tranh vân cẩu có thể chỉxãy ra trong chốc lát. Đằng nào thì cũng di động,biến đổi, dù trong phút chốc hay kéo dài hằng trămngàn năm. Điều đó cho thấy tính cách vô thườngcủa sự vật. Thường đây là thường hằng,là cái gì có như vậy mãi, bất di bất dịch. Vô làkhông, là không có. Vô thường có nghĩa là không có cái gì, khôngcó sự vật nào trên trần gian nầy có thể đứngyên một chổ, hay giữ được trạng thái cũmãi mãi. Ý tưởng vô thường gắn liền vớiý tưởng “huyển ảo”. Huyển ảo là không có thậtnhưng tri giác của người thường cho là thật.Phần đông người thường dùng giác quan đểtri giác, để nhận thức sự vật bên ngoài. Vớinhận thức thông thường người ta thấy mọisự vật hiện hữu trong thế gian này là có thật.Cái bàn, cái ghế, ngôi nhà, chiếc xe, trái núi, con sông, nhữngngười xung quanh mình, cũng như bản thân mình đềuhiện hữu, đều có thật trên trần gian này. Nhưngđối với bậc giác ngộ trong Phật giáo thì tấtcả những cái có thật đó chỉ là huyển ảo,đều không có thật. Hãy lấy bản thân con ngườilàm thí dụ. Theo quan niệm của nhà Phật, thân xác conngười chỉ là duyên kết hợp của nhiều yếutố. Những yếu tố đó là gió, lữa, nước,đất, hay tứ đại, họp thành. Chất cứnglà đất, chất ướt là nước, chất độnghay hơi là gió, chất ấm là lữa. Sự kết hợpcủa bốn chất đó trong một cái duyên gặp gỡlàm nên mạng sống của con người. Nhưng sựkết hợp đó không kéo dài mãi đựơc. Sự mấtquân bình của các yếu tố hay sự mất đi củamột trong những yếu tố đó sẽ đưa đếnsự tan rả của bản thân con người. Nói chung,vạn vật có hình tướng đều do duyên hợp.Không có một vật nào tự thân là một vật , tấtcả đều phải do duyên hợp của nhiều yếutố làm thành. Mọi vật đã do duyên hợp thì thì tựnó thật sự không có. Từ đó có ý niệm “vô ngã”. Vôlà không, ngã là ta, là cái tôi của mọi người. Không cócái ta hay đúng hơn, không có cái ta thật sự. Chỉ cócái ta huyển ảo mà mắt phàm, hay tri giác của ngườithường tưởng là có thật thôi. Ý tưởng vôngã là khởi điểm dẫn đến sự diệttrừ tham sân si trong con người. Ngã đã không có thậtthì tha nhân, hay người khác, hay cả vạn vật cũngđều không có thật. Vậy thì bạn với thù có gìkhác nhau để mà giận hờn thù oán? Giàu với nghèo cógì khác đâu để mà thèm muốn, ghét ghen? Đẹp vớixấu cũng như nhau bởi tất cả đều là“tuồng huyển hóa” thì có gì đâu để mà tranh nhauchiếm hữu? 

           

3. NHÂN QUẢ

Một phần quan trọng nữatrong tư tưởng Phật giáo là thuyết “Nhân Quả”và “Nghiệp”. Nhân là cái hột, hay cái gống. Quả là trái.Câu ta thường nghe là “gieo hột gì thì sẽ hái trái đó”.hoặc “gieo giống gì thì gặt được giống đó”.Ta gieo hột mận thì ta sẽ có cây mận và trái mận.Hột mận là nhân và trái mận là quả vậy. Nói mộtcách tổng quát thì luật nhân quả ấn định rằngkhi ta gieo nhân gì ta sẽ gặt được quả đó.Gieo nhân tốt thì được quả tốt, gieo nhân xấuthì được quả xấu. Đó là điều chúngta có thể nghiệm thấy trong đời sống thườngnhật. Trong điều kiện mưa hòa gió thuận, nếunhà nông chịu khó cày bừa, gieo hạt giống tốt thìnhà nông sẽ gặt được kết quả tốtnghĩa là sẽ trúng mùa sau đó. Nếu bạn sinh trưởngtrong một gia đình có đủ điều kiện, và nếubạn chịu khó học hành đến nơi đếnchốn để có nghề nghiệp vững chắc thìkhi lớn lên ra đời làm việc mưu sinh bạn sẽcó một cuộc sống vững chắc (trong điềukiện bình thường của một xã hội hòa bình, trậttự, công bằng). Ngược lại nếu ngườinông dân biếng nhác, làm việc tắc trách, hoặc gặpcảnh hạn hán bảo lụt thì kết quả sẽ làsự mất mùa, thua lổ. Nếu người đi họckhông chăm chỉ học hành, không chịu khó trao dồiluyện tập thì tất nhiên không thể có đượctương lai tốt đẹp như mình mong muốn. Nhânquả cũng là một định luật trong khoa học.Khi ta có một số những yếu tố quyết địnhnào đó (determining factors) thì ta sẽ có kết quả nhấtđịnh do những yếu tố tạo ra. Kết quảđó là sự kết thành của những yếu tốquyết định như một phương trìnhregression (regression equation) trong thống kê học : aX1 + bX2 +cX3 + . . . = Y       

Trong Phật giáo , luật nhânquả còn được áp dụng rộng rãi hơn nữa,ở bình diện cao siêu hơn, và có tính cách triền miên khôngdứt. Đối với phần đông người đời,hầu hết là chưa giác ngộ, thì nhân quả không có khởiđiểm và cũng không có chổ chấm dứt. Nhân quảở đây tạo thành những vòng tròn, hay vòng xoắn, trỡđi trỡ lại mãi. Bất cứ một cái nhân nào cũnglà cái quả của một cái nhân đã có từ trước,và bất cứ cái quả nào cũng sẽ là cái nhân củamột cái quả khác trong tương lai. Quả cam bạnđang ăn là kết quả của một cái nhân từtrước là một hột cam đã trỡ thành cây cam và đãcho ra trái cam bạn đang ăn. Và hạt cam trong quảcam bạn đang ăn sẽ là cái nhân của một câycam sẽ cho kết quả là trái cam khác trong tươnglai. Nhân thành quả, quả thành nhân, cứ như thế màtiếp diễn. Sự tiếp diễn, trỡ đi trỡlại của nhân quả như vậy được gọilà luân hồi. Luân là cái bánh xe. Hồi là trỡ lại, làquay trỡ về. Luân hồi là sự luân chuyển củabánh xe, nhưng luân chuyển theo cách trỡ đi, trỡ lạimãi. Đời sống của con người bình thường,chưa giác ngộ, chưa được giải thoát, bịchi phối bởi vòng luân hồi đó. Kiếp sống hiệntại của mình là kết quả của một cái nhân đãđược tạo thành hồi kiếp trước, đồngthời nó cũng là cái nhân đưa đến hậu quảlà cuộc sống ở kiếp sau. Cứ thế mà tiếpdiễn, hết kiếp này đến kiếp khác, vớimỗi kiếp vừa là quả của kiếp trước,vừa là nhân của kiếp sau. Sách Truyền Đăng Lụcghi “ Dục tri tiền thế nhân kim sinh thụ giả thị,dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị”. Muốnbiết kiếp trước mình đã làm gì thì hãy xem hiệntại mình đang được hưởng những gì,muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao thì hãy nhìn xem hiệntại mình đang làm gì.

 

4. NGHIỆP BÁO

Nhân quả, luân hồi với“nghiệp báo” gắn liền với nhau. Nghiệp là cái nhân,hay đúng hơn là sự tích lủy của nhiều cái nhân,báo là cái quả tổng hợp của những cái nhân tích lủytừ trước. Nghiệp theo nhà Phật là sự tích lủynhững hành động (những cái nhân) trong quá khứ, nhữnghành động trong quá khứ đó tạo nên cái nhân, cái yếutố quyết định thân phận của con ngườitrong kiếp hiện tại. Nghiệp báo (kamma) là một thứluật nhân quả cho thấy chính con người đã tạora thân phận mình trong hiện tại bởi những hành độngcủa mình tích lủy từ kiếp trước (hay trongquá khứ nào đó). Một nhà sư đã nói: “Chính ta tạothiên đàng cho ta; chính ta tạo địa ngục cho ta”.

Trong quyển “The Buddha and HisTeachings” đại đức Nirada có trích dẫn cuộc vấnđáp của một thanh niên tên Suddha và Đức PhậtThích Ca như sau:

Suddha đến gần ĐứcPhật thưa rằng:

“Bạch Đức Thế Tôndo nghiệp nhân nào mà trong đời có người yểu,có người thọ, người bệnh hoạn, ngườimạnh khỏe, người xấu xa, người đẹpđẽ, người nghèo khổ, người giàu sang, ngườibần tiện, người cao sang, người ngu đần,người thông minh trí tuệ”?

Đức Phật trả lời:

“Tất cả chúng sanh đềumang theo cái nghiệp (kamma) của chính mình như một di sản,một vật di truyền. Chính vì cái nghiệp riêng củamỗi người mỗi khác nên mới có cảnh dị đồnggiữa chúng sinh”.

Đức Phật dạy rằng:“Ta là kẻ thừa hưởng kết quả của hànhvi tạo tác của ta như một di sản từ quá khứtruyền lại”.

Theo Phật giáo, tất cảnhững gì chúng ta có hiện giờ đều do cái nghiệp,do chính chúng ta đã tạo ra từ trước. Chính mình tạonên cái nghiệp cho mình, chớ không do một ngoại lựcnào tạo nên. Cho nên đừng có trách Trời, trách người,hay trách bất cứ cái gì ở ngoài chính mình. Tất cảđề do chính mình tạo nên từ kiếp trướcmà thôi.