Trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn

Hai mươi năm tồn tại của trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn,là hai mươi năm đào tạo ra những nhân tài trong lĩnh vực âm nhạc và kịch nghệ của miền Nam, Thật vậy việc thi đậu vào trường là một điều rất khó và càng khó hơn khi thi tốt nghiệp ra trường, nhiều khi một khoa ra trường chỉ có một người. Cũng như đối với bản thân tôi khi thi vào năm thứ hai môn guitare tôi phải chọi với số thí sinh là trên 50 người; năm đó tôi đậu. Chính vì vậy mà chất lượng đào tạo của trường đã cho ra những nghệ sĩ tầm cỡ. Trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn, một ngôi trường khiêm tốn về diện tích nằm trên đường Nguyễn Du, quận nhất nép mình bên vườn Tao Đàn xanh mát, cạnh bộ phát triển sắc tộc. Điều rất tiếc là hầu như giờ chỉ còn rất ít hình ảnh về ngôi trường này, chủ yếu là sau năm 1975. Còn tư liệu trên trang wikipedia chi có một ít thông tin nhưng may sao tôi tìm được trang tranquanghai1944.com/ đăng nhiều chi tiết về ngôi trường này. Tôi mạn phép biên tập lại gởi đến các bạn đọc.

Ban đầu chỉ là Ban học âm nhạc nằm trong trường cao đẳng Mỹ thuật Gia Định và giám đốc lúc bấy giờ là họa sĩ Lê Văn Đệ.




Trường cao đẳng Mỹ thuật Gia Định nơi Ban học âm nhạc được ghép.



Họa sĩ Lê Văn Đệ giám đốc trường Cao Đẳng Mỹ thuật Gia Định.

Đến năm 1955, chính phủ quốc gia Việt Nam tách Ban học âm nhạc ra khỏi trường Cao Đẳng Mỹ thuật Gia Định theo Công Lịnh số 352/GĐ/CL về Nha kỹ thuật học vụ số 48 đường Phan Đình Phùng đối diện qua buiding Richaud và sử dụng cổng sau của nha ở phía sau số 2 Phạm Đăng Hưng Nha kỹ thuật học vụ khi xưa là văn phòng công ty Établissements Brossard et Mopin - công ty xây dựng những công trình lớn thời Pháp thuộc.


Nha kỹ thuật học vụ ngày nay.

Cơ cấu lãnh đại và điều hành của Nha kỹ thuật học vụ lúc này là:

Giám đốc:

  • Ông Nguyễn Văn Bạch, Kỹ sư Cầu đường (École Polytechnique de Paris). Sau đó là ÔngNguyễn Được, Kỹ sư (École Centrale de Paris)

Giám đốc sáng lập viên (Directeur – Fondateur):

  • Ông Nguyễn Phụng Michel.

Giám học:

  • Giáo sư Nguyễn Hữu Ba

Trường có hai ngành học:

  • Nhạc Tây phương và Cổ nhạc Việt Nam: Nam, Trung, Bắc.
  • Ngành nhạc Tây phương dạy: Dương cầm, Vĩ cầm, Nhạc pháp, Nhạc sử. Hòa âm.


Ông Nguyễn Phụng Michel.


Giáo sư Nguyễn Hữu Ba.

Thành phần Giáo sư:

  • Dương cầm: Ông Nguyễn Cầu, Ông Võ Đức Thu, Bà Amiel Nguyễn văn Đẩu, Bà Clara Phạm.
  • Vĩ cầm: Bà Nguyễn Văn Huấn, Ông Nguyễn Văn Giệp, Ông Phạm Gia Nhiêu.

Ngành Cổ nhạc Nam, Trung, Bắc dạy: đàn Kìm, đàn Tranh, đàn Cò, đàn Gáo, đàn Tỳ bà, đàn Bầu, đàn Đáy, ỐngTiêu, Ống Sáo.


Ông Võ Đức Thu.

Thành phần Giáo sư:

Miền Nam:

  • Đàn Tranh: Ông Nguyễn Văn Kỳ (Chín Kỳ), Ông Huỳnh Văn Biểu (Hai Biểu), Ông Nguyễn Vĩnh Bảo kiêm Trưởng Ban Giáo sư.
  • Đàn Kìm: Ông Võ Văn Khuê (Hai Khuê).
  • Đàn Cò: Ông Hà Văn Tân (Chín Trích).


Ông Nguyễn Vĩnh Bảo.

Miền Trung:

  • Đàn Kìm, đàn Tranh, đàn Tỳ bà, đàn Cò, đàn Bầu: Ông Nguyễn Hữu Ba dạy.

Miền Bắc: (chưa có).

Cuối đời chính phủ Bảo Đại, Ban này lại dời về trụ sở Hội Hòa tấu Nhạc cụ của thời Pháp (Société Philarmonique) nằm ở 112 đường Nguyễn Du theo nghị định ban hành ngày 12-04-1956. Société Philarmonique là một phòng hòa nhạc vừa có chức năng dạy nhạc của Pháp thành lập năm 1896, khi trường dời về đây diện tích được mở rộng ra bằng cách xây thêm khu phòng học và phòng làm việc của trường theo hình chữ U ôm phòng hòa nhạc vô giữa và chính thức có tên Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài Gòn từ năm 1960. Trong kỳ thi tuyển, ngày 10-10-1956, trong số 2500 đơn dự thí chỉ lấy 150 nhạc sinh.

Cơ cấu điều hành của trường gồm:

  • Giám đốc: Giáo sư Nguyễn Phụng Michel.
  • Giám học ngành Nhạc Tây phương: Giáo sư Phạm Gia Nhiêu (Vĩ cầm)
  • Giám học ngành Cổ Nhạc: Giáo sư Nguyễn Hữu Ba
  • Tổng Giám thị: Giáo sư Hoàng Văn Hường (Hùng Lân)
  • Giám thị: Nguyễn Văn Trạch, Lý Văn Đồ, Nguyễn Văn Hậu, Nguyễn Hữu Phụng, Lê Cao Phan, Võ Minh Đầy.
  • Thơ ký Văn phòng: Nguyễn Văn Trí, Lê Công Chánh

Cơ cấu phụ trách chuyên môn gồm:

Ngành Nhạc Tây Phương:

  • Dương cầm: Bà Amiel Nguyễn Văn Đẩu, Bà Nguyễn Khắc Cung, Bà Lạc Nhân, Bà Tạ Toàn, Bà Cúc-Xuân, Bà Đỗ Thế Phiệt, Bà Clara Phạm, Ông Võ Đức Thu, Ông Nguyễn Cầu, Ông Nghiêm Phú Phi, Ông Mousny.


Ông Nghiêm Phú Phi.

  • Vĩ cầm: Bà Nguyễn Văn Huấn, Ông Nguyễn Văn Giệp, Ông Đỗ Thế Phiệt, Ông Nguyễn Khắc Cung, Ông Tạ Toàn, Ông Phạm Gia Nhiêu.
  • Trung vĩ cầm: Ông Phùng Hán Cao.
  • Hạ vĩ cầm: Ông Nguyễn Quý Lãm.
  • Đại vĩ cầm: Bà Barthélémy Phạm Thế Mỹ.
  • Sáo: Ông Vũ Thành.
  • Clarinette: Ông Nguyễn Văn Thành.
  • Trompette: Bà Barthélémy Phạm Thế Mỹ.
  • Tây ban cầm: Ông Bénito Cruz, Ông Dương Thiệu Tước
  • Măng cầm: Ông Trần Anh Tuấn (Pierre Trần)
  • Nhạc pháp: Ông Hoàng Văn Hường (Hùng Lân), Ông Nguyễn Cầu, Ông Vũ Văn Tuynh, Bà Thẩm Oánh.


Ông Vũ Văn Tuynh.


Ông Dương Thiệu Tước.

  • Nhạc sử: Cô Bình Minh, Ông Nguyễn Văn Huấn.
  • Hòa âm: Ông Nguyễn Phụng, Linh mục Labbé Ngô Duy Linh.
  • Hợp ca: Ông Hải Linh
  • Dân ca nhạc sử Việt Nam: Ông Ngô Đình Hộ (Lê Thương)


Ông Nghiêm Phú Phi.


Ông Ngô Đình Hộ (Lê Thương).

Ngành Cổ nhạc:

  • Giám học Giáo sư Nguyễn Hữu Ba (1955 – 1960), Ông Nguyễn Văn Thinh (1961 – 1964)

Nhạc Miền Nam:

  • Trưởng Ban Giáo sư: Ông Nguyễn Vĩnh Bảo (Tranh)
  • Ông Nguyễn Văn Thinh (Kìm, Tranh, Tỳ bà)
  • Ông Huỳnh Văn Biểu (Hai Biểu) (Tranh)
  • Ông Phạm Văn Nghi (Kìm, Tranh, Cò, Gáo)
  • Ông Trương Văn Đệ (Bảy Hàm) (Kìm)
  • Ông NguyễnThế Huyện (Tư Huyện) (Cò, Tiêu)
  • Ông Lê Văn An (Tranh)
  • Ông Võ Văn Khuê (Hai Khuê) (Kìm, Tỳ bà)
  • Ông Trần Công Sính (Kìm)
  • Ông Cao Hoài Đông (Kìm)
  • Ông Nguyễn Đình Nghĩa (Sáo)
  • Ông Ngô Nhật Thanh (Bầu)
  • Ông Chín Tâm (Tranh)
  • Bà Hồ Thị Bửu (Phạm Văn Nghi phu nhân) (Ca)
  • Bà Hồ Tuyết Loan (Mười Tân Châu) (Ca)


Ông Nguyễn Đình Nghĩa.

Nhạc Miền Trung:

  • Trưởng Ban Giáo sư: Ông Nguyễn Hữu Ba (Kìm, Tranh, Cò, Bầu,Tỳ bà)
  • Ông Vĩnh Trân (Bầu, Tỳ bà)
  • Ông Nguyễn Gia Cẩm (Kìm)
  • Ông Vĩnh Phan (Kìm, Tranh, Tỳ bà)
  • Ông Bửu Lộc (Tranh)
  • Ông Trịnh Chức (Tranh)
  • Bà Tuyết Hồi (Ca)

Nhạc Miền Bắc:

  • Trưởng Ban Giáo sư: Ông Nguyễn Văn Năng (Kìm)
  • Ông Trần Viết Vấn (Tranh, Sáo)
  • Ông Vũ Hòa (Cò, Tiêu, Sáo)
  • Ông Kim Mã (đàn Đáy)
  • Ông Mại (đàn Kìm)
  • Bà Kim Bảng (Ca)

Hát Bội:

Ban Cố vấn:

  • Giáo sư Đoàn Quang Tấn, nguyên Bộ Trưởng Bộ Giáo dục
  • Ông Nguyễn Văn Quí, Đốc phủ
  • Ông Ngô Công Thiện, Đốc phủ, Bộ Nội vụ
  • Ông Đỗ Văn Rỡ (Đốc phủ – Phủ Đặc trách Văn hóa)
  • Ông Ngọc Linh (soạn giả)
Thành phần Giảng viên:
  • Quý Ông: Ba Hạnh, Thành Tôn, Chín Tài
  • Quý Bà: Ba Đắc, Ba Út, Hai Nhỏ, Năm Sa-đéc.


Ông Thành Tôn.


Bà Năm Sa-đéc

Đàn đệm:

  • Sáu Vửng (đàn Cò)
  • Văn Lựa (đàn Cò, đàn Gáo, Kèn thau)
  • Tám Nhứt (bộ Gõ)

Sân khấu Cải Lương:

Quý Bà:

  • Trương Phụng Hảo (Bà Bảy Phùng Há)
  • Kim Cúc (ái nữ Ông Huỳnh Năng Nhiêu (Bảy Nhiêu), phu nhân Ông Năm Châu)
  • Kim Lan (ái nữ ông Bảy Nhiêu, em Cô Kim Cúc, phu nhân Nhạc sỹ Guitare–Mando Bảy Y)


Bà Bảy Phùng Há.


Bích Thuận.

Quý Ông:

  • Nguyễn Thành Châu (Năm Châu)
  • Lê Hoài Nở (soạn giả)
  • Huỳnh Năng Nhiêu (Bảy Nhiêu)
  • Duy Lân (soạn giả)
  • Duy Chức (em Ông Duy Lân)
  • Vi Huyền Đắc (soạn giả)
  • Trần Tấn Quốc (nhà báo)
  • Nguyễn Văn Tài (ký giả)


Ông Nguyễn Thành Châu (Năm Châu).


Ông Duy Lân.

Đàn đệm:

  • Huỳnh Văn Sâm (SáuTửng) (Kìm)
  • Trần Văn Dư (Ba Dư) (Tranh)
  • Hà Văn Tân (Chín Trích) (Cò)


















Ban văn nghệ và giáo sư Kim Oanh đại diện Gia Long trình diễn tại trường Quốc Gia Âm Nhạc 6 1967.

Trên đây là danh sách ban giám đốc và các giảng viên nhưng thực sự chưa đầy đủ, theo tra cứu trên mạng thì có phần bổ sung ban giám đốc như sau:

  1. Nguyễn Phụng
  2. Nguyễn Khắc Cung
  3. Đỗ Thế Phiệt (-1970)
  4. Nghiêm Phú Phi (1970 -1975)

Trong thời gian tôi học trường này, tôi được biết thêm một số giảng viên nữa là:

  1. Nhạc sĩ Phạm Duy (giáo sư nhạc ngữ)
  2. Nhạc sĩ Văn Giảng (giáo sư nhạc sử đông phương)
  3. Ông Võ Minh Đầy. (giáo sư nhạc sử tây phương)
  4. Nhạc sĩ Trần Anh Linh (giáo sư nhạc lý và hợp ca)
  5. Ông Lê Xuân Cảnh (giáo sư môn guitare)
  6. Ông Nguyễn Quang Tri (giáo sư môn guitare)
  7. Ông Lâm Cao Khoa (giáo sư môn guitare)
  8. Bà Nguyễn Thị Nhung (giáo sư môn mandoline)
  9. Ông Phan Thế (Giáo sư Môn ca)
  10. Ông Đoàn Chính (Giáo sư Môn ca)
  11. Ông Lê An (Giáo sư Môn ca)
  12. Ông Đinh Bằng Phi (giáo sư môn hát bộ)
  13. Nhạc sĩ Lê Thương
  14. Ông Vũ Khắc Khoan (Môn thoại kịch)
  15. Ông Thanh Tâm Tuyền (Môn thoại kịch)
  16. Nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu
  17. Nhạc sĩ Bùi Thiện
  18. Nhạc sĩ Tiến Dũng
  19. Nhạc trưởng Hải Linh
  20. .....

Ngoài ra còn có anh Mai chuyên về in roneo các tài liệu sao lại từ các sách nước ngoài cho sinh viên.

Những sinh viên trường quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn thành danh:

  1. Nhạc sĩ Anh Việt Thu
  2. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ
  3. Nhạc sĩ Quốc Dũng
  4. Nghệ sĩ Tú Trinh
  5. Nghệ sĩ Huỳnh Thanh Trà
  6. Nhạc sĩ Võ Tá Hân
  7. Ca sĩ Họa Mi
  8. Ca sĩ Lâm Xuân
  9. Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên
  10. Nhạc sĩ Đỗ Đình Phương
  11. Nhạc sĩ Phạm Thúy Hoan
  12. Nhạc sĩ Trần Quang Hải
  13. Nhạc sĩ Nguyễn Khánh Hồng
  14. Nhạc sĩ Viết Chung
  15. Nhạc sĩ Đỗ Thị Phương Oanh (Paris)
  16. Nhạc sĩ Hoàng Thi Thi
  17. Ca sĩ Quỳnh Giao
  18. Tài tử Trần Quang
  19. .......