Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long

Chương 4

Tác phẩm của John Barrow (1764-1848)

bia-Barow1Vào Google đánh chữ Olivier de Puymanel, Wikipédia Pháp, thấy ghi: “Olivier de Puymanel “là một nhà kiến thiết và là người tổ chức quân đội Việt Nam dưới triều đại nhà Nguyễn”. Wikipédia Việt, ghi: “Olivier de Puymanel là người giám sát thi công toà thành bát quái, theo thiết kế của kỹ sư người Pháp, Théodore Lebrun”, ông “đã huấn luyện cho hơn 50.000 quân Nguyễn, còn Jean-Marie Dayot thì lo về thuỷ quân”.

Những điều đã được truyền tụng khắp nơi trên thế giới, đã trở thành “sự thực”, cho đến ngày nay là: “Puymanel là cha đẻ các thành trì xây theo kiểu Vauban tại Việt Nam trong thế kỷ XIX”, “Bá Đa Lộc đã bỏ tiền riêng ra mua tầu và khí giới, mướn người, đem các “kỹ sư”, “sĩ quan” Pháp về xây dựng quân đội Nguyễn Ánh, ông còn là “thầy dạy” Nguyễn Ánh về mọi mặt, chiến lược, cai trị, vv…”

Tất cả những “thông tin” loại này thoát thai từ sự xác định của các sử gia thuộc địa, cách đây hơn 100 năm, rằng: Bá Đa Lộc và những “sĩ quan” Pháp đã giúp Gia Long “dựng lại cơ đồ”. Đã đến lúc chúng ta cần phải khảo sát lại những “công trạng” này. Đâu là sự thực? Đâu là huyền thoại?

Học giả Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên viết những dòng xuyên tạc lịch sử nước mình, theo đúng quan niệm thực dân trong cuốn Cours d’Histoire Annamite, Saigon, Imprimerie du Gouvernement, 1875.

Những học giả Pháp như Maybon, Cadière, có lối viết của họ, chúng ta sẽ nghiên cứu sau, đều đồng thanh trách Đại Nam Thực Lục không nhắc nhở đủ đến công trạng của những người Pháp này.

Vậy chúng ta cần phải điều tra xem Thực Lục và Liệt Truyện thiếu sót ở chỗ nào.

Công việc đầu tiên là tìm xem những tác giả Tây phương đương thời viết gì về giai đoạn này.

John Barrow và cuốn A Voyage to Cochinchina (Chuyến đi Nam Hà)

Một trong những tác phẩm sớm nhất của người ngoại quốc viết về giai đoạn Gia Long dựng nghiệp, là cuốn sách của John Barrow (1764-1848), in tại Luân Đôn, năm 1806, tựa đề -theo lối của thời ấy, tên sách rất dài- như sau:

A Voyage to Cochinchina in the years 1792 and 1793: containing a general view of the valuable productions and the political importance of this flourishing Kingdom; and also of such European settlements as were visited on the voyage; with sketchs of the Manners, Character and Condition of their several inhabitants, to which in annexed an Account of a Journey made in the year1801 and 1802 to the Residence of the Chief of the Booshuana nation… (London, 1806).

Sách này được Malte-Brun dịch và chú giải sang tiếng Pháp, tựa đề: Voyage à la Cochinchine par les Iles de Madère, de Ténériffe et du Cap Verd, Le Brésil et l’Ile de Java, contenant des renseignements nouveaux et authentiques sur l’Etat naturel et civil de ces divers pays… (Paris, 1807).

Dịch: Hành trình sang nước Nam qua các đảo Madère, Ténériffe, Mũi Verd, Brésil, đảo Java, với những thông tin mới và xác thực về tình trạng thiên nhiên và dân sự ở những xứ khác nhau này…

John Barrow (19/6/1764 – 23/11/1848) là nhà thám hiểm, nhà quản trị và ngoại giao Anh. Khoảng 1792-1794, ông giữ chức thị vệ của George Macartney, sứ thần Anh đầu tiên ở Trung Quốc. Hạm đội chở phái đoàn sứ thần Anh đến Trung Hoa, ngừng lại ở Đà Nẵng từ 14/5 đến 16/6/1793, dưới triều vua Cảnh Thịnh. Tác phẩm viết trong khoảng 1797-1798, tức là 4 năm sau khi Barrow rời Đà Nẵng.

Cuốn sách được nhiều người trích dẫn khi viết về Việt Nam.

Bản dịch Pháp văn gồm 2 tập: Tập I (do Imprimerie de Jeunehomme in ở Paris, 1806) và Tập II (Arthus- Bertrand, 1807), đều viết về các xứ kể tên ở trên, dưới dạng hồi ký lịch sử, địa lý, kinh tế và chính trị.

Sách in kèm với một tập hình gồm 18 bức khắc họa ghi lại chuyến đi, do Tardieu thực hiện, trong đó có một bức vẽ Hội An với những kiểu tầu, thuyền mà tác giả mô tả trong sách.

Chúng tôi giới thiệu phần Barrow viết về Việt Nam, trong chương IX, X và XI (t. 182- 361), tập II, qua bản dịch Pháp văn của Malte-Brun, trích dịch sang tiếng Việt, sẽ dẫn là Barrow II.

Để soạn ba chương này, Barrow cho biết, ông đã dựa vào những nguồn tin sau đây:

“Hầu hết những chi tiết mà tôi vừa đưa ra hoặc sẽ nói đến, thoát thai từ bản thảo hồi ký của Ô. Barisy, một sĩ quan Pháp giỏi giang, đã quản một chiếc tầu phục vụ vua Gia Long. Chắc chắn phần thứ nhất [tức là phần nói về Quang Trung] hoàn toàn ăn khớp với những gì tôi tiếp nhận được ở Đà Nẵng từ một người thư ký của chính phủ Trung Hoa sống tại đây, được người thông ngôn của chúng tôi dịch lại. Những ký sự của các vị thừa sai đã sống ở xứ này, cũng phù hợp [với những điều này]: vì vậy, tôi hoàn toàn tin tưởng. Ngoài ra, những sự kiện chính còn được hai người Anh sống ở Sài Gòn năm 1799-1800, xác nhận.” (Barrow II, t. 221).

(Il est bon de dire au lecteur, que j’ai tiré la plus grande partie des détails que je viens de donner, et de ceux qui vont suivre, d’un mémoire manuscrit de M. Barisy, officier français d’un grand mérite, qui commandoit une frégate au service de Caung-shung. Il est certain que la première partie s’accorde parfaitement avec ce que nous avons appris dans la baie de Turon, d’un secrétaire du gouvernement de la Chine, résident en ce lieu, et dont les récits nous étaient transmis par notre interprète. Les différentes relations des missionnaires qui ont résidé dans ce pays, s’y accordent également: ainsi, je n’hésite pas à donner au reste la plus entière confiance. D’ailleurs, les faits principaux m’ont encore été confirmés par le témoignage de deux Anglais, qui ont été à Sai-gong dans les années 1799 à 1800). (Barrow II, t. 221).

Tóm lại, Barrow đã dựa vào:

- Bản thảo hồi ký của Barisy, một trong những người lính Pháp giúp Nguyễn Ánh.

- Lời người thư ký làm việc cho chính phủ Trung Hoa, ở Đà Nẵng (1793) kể lại, qua thông ngôn.

- Hai người Anh ở Sài Gòn năm 1799 và 1800.

- Và tư liệu trong các tập Les Nouvelles des Missions Orientales (Tin tức các hội thừa sai Đông phương), in năm 1785, 1787, 1789, 1794 và 1797.

Câu “người thư ký làm việc cho chính phủ Trung Hoa” này, Taboulet, khi trích dẫn Barrow, lại viết thành: “Một người thư ký Tầu của chính phủ Việt Nam (Un secrétaire chinois du gouvernement vietnamien) (Taboulet, La Geste Française en Indochine, Tome I, note 1, trang 270).

Taboulet chỉ chép lại cái sai của Maybon: Thay vì “người thư ký của chính phủ Tầu” lại đổi thành “người thư ký Tầu của chính phủ Việt Nam.” (Maybon, Introduction, La relation de la Bissachère, trang 37, note 1).

Nhưng tệ hại hơn cả là cái sai của Tạ Chí Đại Trường.

Tạ Chí Đại Trường chép theo Taboulet, nhưng lại viết như thế này: “John Barrow dựa trên các tài liệu của L. Barisy, của một viên thư ký Tầu của chính quyền Gia Định (Trịnh Hoài Đức?) và các giáo sĩ mà vẽ rõ một Nguyễn Ánh lúc đứng tuổi…” (TCĐT, Lịch sử nội chiến Việt Nam, trang 96, chúng tôi in đậm).

Không hiểu tại sao Tạ Chí Đại Trường lại thêm câu “chính quyền Gia Định” vào, để móc nối với Trịnh Hoài Đức?

Barrow có đến Gia Định hồi nào đâu mà gặp Trịnh Hoài Đức? Để rồi sau đó, Tạ Chí Đại Trường dẫn đến nhận xét: “sử quan” nhà Nguyễn “không tiếc dịp đề cao hoàng đế của họ”.

Chúng tôi xin nhắc lại: những điều viết về Gia Long trong cuốn sách này là do Barrow viết ra, không phải do “sử quan nhà Nguyễn” hay Trịnh Hoài Đức viết.

Để vẽ chân dung Gia Long, Barrow dựa vào hồi ký Barisy, và 2 người Anh ở Sài Gòn năm 1799 và 1800, họ là những chứng nhân ngoại quốc gần nhất của thời kỳ này. Riêng Barisy, nếu những điều ông kể trong mấy bức thư [được Cadière sưu tập] là đúng, thì ông đã được gần Nguyễn Vương trong nhiều năm. Barisy là người giúp vua mua bán máy móc, vũ khí, nguyên liệu ở nước ngoài, ông hay đi đi về về Gia Định và ở bên Hoàng tử Cảnh, khi hoàng tử mất vì bệnh đậu mùa, trong lúc vua đang đánh trận.

Còn về thuật đóng tầu và tầu chiến của Việt Nam, Barrow quan sát tầu thuyền ở vịnh Đà Nẵng và Hội An, năm 1793 (một năm sau khi Quang Trung mất).

Những điều Barrow viết về thuật đóng tầu ở Việt Nam nói riêng, ở Trung Hoa và phương Đông nói chung, đã gián tiếp phản bác tất cả những luận điệu cho rằng “các sĩ quan” Pháp đặc biệt Puymamel và Bá Đa Lộc đã “dạy” Gia Long đóng tầu, đúc súng…

Có lẽ vì lý do đó, nên khi trích dẫn Barrow, Taboulet đã bỏ hẳn hai đoạn quan trọng nhất, là đoạn kỹ thuật làm tầu chiến ở Việt Nam và đoạn Gia Long trực tiếp trông coi và điều khiển tất cả những công xưởng đóng tầu và đúc súng ở Gia Định.

Maybon cũng loại trừ tác phẩm của Barrow bằng cách chỉ trích những đoạn viết sai về lịch sử, chủ yếu về vụ Conway không chịu thi hành hiệp ước cầu viện Versailles 28/11/1787; nhưng ông Maybon lại giữ lại một sai lầm khác của Barrow để dùng, đó là việc Bá Đa Lộc “cứu sống” Nguyễn Ánh năm 1777, cần thiết cho sự xác định “vị trí hàng đầu” của Bá Đa Lộc bên cạnh Nguyễn Ánh.

Sơ lược nội dung tác phẩm A Voyage to Cochinchina (Chuyến đi Nam Hà)

Phần viết về Việt Nam gồm ba chương: IX, X và XI, in trong tập II.

Chương IX: Gồm hai phần:

1- Xác định vị trí nước Nam và hoàn cảnh hạm đội Anh ghé Đà Nẵng (t. 182-191).

2- Lược khảo lịch sử nước Nam, tình hình tranh chấp lúc bấy giờ (t. 192-219). Hành trình Bá Đa Lộc (t. 200- 219) và Chân dung vua Gia Long (t. 220- 240).

Có thể nói, Barrow đặc biệt chú ý đến hai người anh hùng của giai đoạn này, về vua Quang Trung, ông đứng trong quan điểm chung lúc bấy giờ (kể cả Hoàng Lê nhất thông chí của Ngô Thì Chí), đều gọi là ngụy, nhưng cũng không kém sự khâm phục, kính nể thiên tài chính trị và quân sự.

Về chân dung vua Gia Long, đây là một trong những bài viết rõ và có nhiều chi tiết nhất về vị vua này. Barrow đặc biệt kính trọng vua Gia Long, coi Gia Long như một thiên tài, đã khôi phục lại nhà Nguyễn sau nhiều năm bị Nguyễn Huệ đánh đuổi, không còn mảnh giáp, phải sống lưu đầy, khốn khổ; lúc đầu chỉ có “một chiếc thuyền” mà hơn 10 năm sau đã có cả một “hạm đội 1200 chiến thuyền”, không những giành lại miền Nam của tổ tiên các chúa Nguyễn mà còn đánh ra Bắc thống nhất đất nước. Phần chân dung vua Gia Long, chúng tôi sẽ trích dịch riêng, in trong chương năm, sắp tới).

Chương X: Lược khảo đại cương về phong tục, tính tình và hoàn cảnh sống của dân Đà Nẵng. Triều đình Cảnh Thịnh tiếp đãi hạm đội Anh (241- 306).

Chương XI: Những lợi ích trong việc buôn bán với nước Nam (t. 307- 345).

*

Trong chương IX, phần lược khảo lịch sử nước Nam, Barrow viết về những việc:

Anh em Tây Sơn khởi binh, 1774. Việc nội chiến (t. 192-193). Vua Lê sang Tầu cầu cứu. Quang Trung thắng quân Thanh. Việc sắc phong và triều cống (t. 194-199). Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh. Chiến tranh Nguyễn Ánh-Tây Sơn (t. 200-206). Bá Đa Lộc đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, hiệp ước Versailles 1787 (t. 207-211). Bá Đa Lộc gặp khó khăn ở Pondichéry với Conway. Bá Đa Lộc về Sài Gòn (t. 213-216).

Như phần lớn các tác gia ngoại quốc không phải là chuyên gia lịch sử, khi viết về lịch sử Việt Nam, qua lời kể lại của người Tầu, Barrow mắc những sai lầm không tránh được vì thiếu kiến thức về lịch sử, văn hoá nước ta. Đoạn viết về Quang Trung, có sự lầm lộn giữa hai nhân vật: Tôn Sĩ Nghị và Phúc Khang An (người Barrow gặp ở Bắc Kinh).

Tuy vậy, có một thông tin đáng chú ý: Nguyễn Lữ là thầy tu (Barrow II, t. 192).

Barrow viết: “Người lái buôn [Nguyễn Nhạc] xa xỉ trong tiệc tùng, lễ hội, đốt pháo bông. Ông tướng [Nguyễn Huệ] thu phục quân đội và ông thầy tu [Nguyễn Lữ] có tiếng nói của bọn giáo phái” (t. 192).

Sự kiện này, nếu đúng, giải thích tại sao Nguyễn Lữ thường trốn việc đánh nhau và không có con.

Chương X: (t. 241-306) Đoạn Barrow viết về tập tục, tính tình, và tình trạng thiên nhiên ở Đà Nẵng, Barrow đang kể chuyện các quan chức ở Đà Nẵng mời phái đoàn Anh dự hội ngày 4/6, xem tuồng, hát, các trò chơi như chọi gà, đánh cờ và ăn tiệc. Có sự chuyển động của quân lính Tây Sơn (hệ quả của vụ Manuel Duomé tuyên truyền tầu Anh đến chiếm Đà Nẵng, sẽ nói đên sau) phía Anh cũng chuẩn bị giáp chiến, nhưng cuối cùng không có chuyện gì; phái đoàn được mời xem hát tuồng, ăn uống vui vẻ (t. 241-256).

Tiếp đó, ông nói về tính tình người Việt: nhanh nhẹn, vui vẻ, nói nhiều… Barrow giữ một giọng khách quan khi nói về người Việt và các tôn giáo, phong tục, tập quán của dân Việt. Những gì ông cho là dở thì phê bình, như chuyện người Việt mê tín hoặc hay ăn cắp vặt, nhưng cũng nói thêm là tôi ở không lâu, nên có thể phán đoán sai lầm.

Ông viết về ngôn ngữ, tôn giáo, nhà cửa, y phục, đạo đức, vị trí người phụ nữ: khá tự do và làm mọi việc như đàn ông (t. 257- 276). Nhà cửa, sản phẩm, hải sản ở Đà Nẵng, lâm sản, đồ ăn, hoa quả, sản xuất, việc thừa kế gia tài (t. 277- 287). Kỹ thuật đóng tầu và tầu chiến của Việt Nam (t. 287-293). Bản đối chiếu một số từ tiếng Anh, Hán, Việt (t. 295-297). So sánh giữa người Tầu và người Việt. Người Việt theo đạo Phật, thờ thần, thờ Phật trên cây; mê tín, lập bàn thờ ở những chỗ có tai nạn (t. 299-304). Về hình luật, so sánh với Tầu, cùng chung luật, nhưng trong thời gian ông ở Đà Nẵng không thấy áp dụng các hình phạt, còn ở Tầu, đi đâu cũng thấy tội nhân bị đánh đập dã man, rên siết dưới gông cùm (t. 305-306).

Chương XI: Kê khai những lợi ích trong việc buôn bán với nước Nam (t. 307- 345), phần này cũng sẽ được trích dẫn dài rộng ở dưới.

Tóm lại, tác phẩm của John Barrow, phần có giá trị nhất, là những điều ông viết do mắt thấy tai nghe hoặc do những nhân chứng nhân trực tiếp sống ở thời đại này. Chúng tôi trích dịch sau đây, những đoạn có ích đối với chúng ta, trong việc nghiên cứu bối cảnh xã hội và lịch sử, ngoài những gì đã thấy trong chính sử Việt.

Lý do hạm đội Anh ghé Đà Nẵng năm 1793

Phần đáng chú ý đầu tiên là đoạn tác giả nói hoàn cảnh nào đã khiến hạm đội Anh ghé Đà Nẵng năm 1793, (trong chương IX), ông viết:

“Bởi vì lúc bấy giờ phải nhờ thuận gió [mới đi được], và tình trạng sức khỏe của những người bệnh bắt chúng tôi phải ghé lại đất liền.

Chúng tôi đành đỗ lại ở một vịnh, đối diện với quần đảo Côn Lôn. Nhưng khi nhìn thấy các tầu lớn của chúng tôi, người dân ở đây sợ quá, họ bỏ chạy lên núi, để lại chút lương thực của họ trước cửa lều, rồi viết mấy chữ Hán, bảo chúng tôi cứ việc lấy hết những gì họ có, nhưng tha cho những mái nhà khốn khổ của họ.

Thấy tình trạng của đảo này, chúng tôi vội vã nhổ neo, trực chỉ một phần khác của Á Châu, phần này đáng lẽ phải được biết đến nhiều hơn, và chúng tôi dám tiên đoán rằng chỉ trong vài năm nữa, nó sẽ được một số nước Âu Châu biết đến” (Barrow II, t. 183).

Tiếp đó ông phản bác quan niệm của Pinkerton, cho rằng vùng này (Lào, Mên, Việt) chẳng có gì đáng chú ý cả; ngược lại vị trí chiến lược và sự phì nhiêu, giầu mạnh về thổ sản khiến vùng này là một trong những vùng đất thiết yếu cần được quan tâm hơn. Tuy nhiên trên bản đồ cũng như trong những mô tả địa lý, người ta [Anh] đã bỏ qua vùng đất này. Những nhận xét của Barrow, vào lúc ấy, khá thức thời; nhưng cũng nên biết rằng sự thức thời của ông để phục vụ đế quốc Anh và sự chinh phục đất đai thuộc địa của người Anh. Trên đường đi, họ luôn luôn vấp phải trở lực từ các nước Âu châu khác, hoặc ganh tỵ, chèn ép, hoặc phá hoại.

Khi đã thấy rõ điều đó, chúng ta có thể hiểu tại sao vua Gia Long, rồi vua Minh Mạng, Thiệu trị, Tự Đức, đều rất thận trọng không cho người Âu lập quan hệ ngoại giao và mở thương điếm, bởi vì đằng sau lá bài thương điếm, là sự do thám, dẫn đường cho quân đội viễn chinh.

Bờ biển nước Nam, sự tiếp xúc đầu tiên

Barrow viết:

“Những địa danh được ghi trên các bản đồ của chúng ta [Anh] hoàn toàn không biết đến phần đất này [chỉ Tonquin, Cochinchine, Tsiompa, Cambodia, tức là Bắc Hà, Nam Hà, Chàm, Chân Lạp], trừ chữ Tung-quin [Bắc Hà]. Ba miền kia được thay bằng tên An-Nam, và cả nước được chia thành ba vùng:

Vùng thứ nhất, từ mỏm cực nam giáp vịnh Xiêm La, tức là từ vĩ độ 9 đến vĩ độ 12, được gọi là Don-nai [Đồng Nai].

Vùng thứ nhì, từ vĩ độ 12 đến vĩ độ 16, được gọi là Chang [Trung?]

Và vùng thứ ba, từ vĩ độ 16 đến vĩ độ 17, gọi là Huế.

Sau đó là địa phận Tung-quin [Bắc Hà].

Bờ biển của ba miền này cống hiến những vịnh và những hải cảng an toàn và thuận tiện. Con sông lớn Đồng Nai (trên bản đồ đề Cambodie) được mô tả là các hạm đội lớn nhất đều có thể vào sâu trong đất liền đến 40 hải dặm, nơi có thành phố Sai-gong [Sài Gòn] với một bến tầu rộng lớn và thuận tiện, và một xưởng đóng tầu chiến lớn.

Một người Anh trên đường từ Trung Hoa đến Ấn Độ đã đi trên sông này trên một chiến hạm Bồ Đào Nha, nói với tôi rằng đó là dáng vẻ hùng mạnh nhất. Con sông này chia làm nhiều nhánh rộng; nhưng nhánh mà anh ta đã đi qua, khúc rộng thường không quá 2 dặm, và nhiều khúc chỉ khoảng 1 dặm. (…).

Ở miền Chang [Trung?], khoảng vĩ độ 13 phút 50 giây, về phiá bắc, có vịnh và hải cảng Chin-Cheu [Thị Nại?]. Hải cảng rất rộng và hoàn toàn khuất gió; nhưng những chiến hạm lớn phải đậu ngoài khơi, vì có một ghềnh đá xuyên ngang cửa lạch nối liền hải cảng với vịnh ngoài, đầu hải cảng là thành phố Quin-nong [Quy Nhơn].

Thành phố chính trong địa phận Huế mang cùng tên; ở trên bờ một dòng sông mà các chiến hạm có thể vào được, có một hải cảng lớn; nhưng lại có một ghềnh cát xuyên ngang cửa biển. Vịnh Han-san [Cửa Hàn] phiá nam con sông này, trên bản đồ thường được ghi là vịnh Turon [Tourane, Đà Nẵng].

Toàn thể phương Đông, khó có một vịnh nào sánh được về tính an ninh và thuận tiện. Càng không có vịnh nào tốt hơn.

Chính vịnh này chúng tôi trực chỉ khi rời Côn Lôn.

Chúng tôi đến Đà Nẵng ngày 24/5 [1793]. Không có bản đồ để tra cứu, thấy giữa chúng tôi và bờ biển là hàng hà sa số ghe chài lưới, chúng tôi bèn thả một cái xà-lúp (chaloupe) để đi tìm một người lái thạo bờ biển (pilote-côtier) nhưng những người đánh cá đã nhìn thấy [tầu chúng tôi] vội vàng giong buồm chạy lùi.

Cuối cùng chúng tôi cũng bắt được một chiếc ghe không có buồm, lôi ra một ông già khốn khổ. Tôi chưa từng nhìn thấy ai khổ như thế bao giờ, mặt ông đầy rãnh nhăn; đôi mắt lơ láo, hõm sâu trong sọ, da mặt mầu gỗ sồi già, một vài lọn tóc xám lòi ra khỏi miếng khăn dơ quấn đầu; y phục vỏn vẹn một chiếc áo cộc vá hai chục mảnh khác màu nhau, với chiếc quần rách rưới, xẻ tung ra từng miếng như cái váy.

Mẫu người dân vừa thấy, không cho cho chúng tôi một cảm giác tốt đẹp. Khi ông già khốn khổ này đặt chân lên tầu, ông ta có vẻ cực kỳ dao động, dáo dác nhìn bốn xung quanh trên boong tầu; rồi nhìn những khẩu đại bác lớn, ngạc nhiên khi thấy nhiều người như thế. Nhưng điều làm cho ông già chú ý nhất, đó là những cột buồm cao. Ông ta vật vã khóc lóc. Chúng tôi phải hết sức dỗ dành cho ông ta yên tâm, ra dấu cho ông ta hiểu chúng tôi muốn gì và tại sao lại bắt ông ta lên tầu. Lúc đó, ông già mới chỉ tay cho biết lối vào vịnh, thật khó cho những ai không biết đường. Vì trời dông bão, phải đến tối hôm sau chúng tôi mới vào được vịnh.

Lý do chính thức thúc giục chúng tôi vào cửa sông Đà Nẵng, sau khi đã gặp bất trắc ở Côn Lôn, là tình trạng tồi tệ mà bệnh sốt rét và kiết lỵ đã cướp đi nhiều người bệnh. Trong thời gian ở Batavia [Jacarta], hầu hết chúng tôi đều bị mắc bệnh. Bạn càng hiểu mối lo âu và buồn bã của chúng tôi, khi được người thuyền trưởng tầu Bồ Đào Nha, đỗ ở trong vịnh cho biết, ở Nam Hà đang có giặc giã nổi dậy, cả nước đói, rằng ở đây chẳng có gì để cung cấp lương thực mà chúng tôi cần kíp cả. Ông ta khuyên chúng tôi nên đi thẳng tới Macao, hơn là mất thì giờ chờ đợi ở đây vô ích, có thể người ta sẽ hứa hão, nhưng ông ta biết chắc họ chẳng có thể cung cấp gì nổi.

Nhìn tình trạng khốn khổ của ông già đánh cá, tình trạng chung bề ngoài của nơi này, và sau cùng tất cả những gì chúng tôi nhìn thấy xác nhận lời tường thuật đáng buồn của ông Manuel Duomé.

Rất ít người bản xứ đến gần hạm đội chúng tôi. Họ có vẻ lo ngại và ngờ vực. Sau cùng, khi chúng tôi lên bờ, họ có ý tránh. Không một ai đến tầu trao tặng chút thực phẩm nào cả, và chúng tôi cũng phải khó khăn lắm mới mua được ở trên bờ vài con gà, một chút hoa quả và vài củ khoai sắn.

Tuy nhiên, ngay ngày thứ nhì, có chợ, đầy đủ hơn, và vài ngày sau, biết chúng tôi trả đúng giá, bằng tiền tốt, họ đem đến rất nhiều đồ ăn, hoa quả, rau cỏ, đủ loại.

Những vị chức sắc ở đây bắt đầu hiện diện, có chút ân cần đối với những thỉnh cầu của chúng tôi và tỏ ra lịch sự, lễ độ. Sau cùng, họ lên thăm chúng tôi trên tầu và mời tất cả sĩ quan tối hôm ấy lên bờ, dự tiệc.

Từ hôm đó, mối liên hệ của chúng tôi với dân tộc này, trở nên thẳng thắn và bền vững; có sự tin cẩn lẫn nhau; sau này chúng tôi mới khám phá ra một điều ít vẻ vang cho ông bạn Manuel Duomé: đó là, ông bạn, nhà buôn Bồ Đào Nha này, vì cạnh tranh thương mại, đã chính ông, gây sự nghi ngờ cho người Việt, bằng cách mật báo cho họ rằng: hạm đội Anh đến đây thế nào cũng có ý gây chiến; và dường như anh ta đã hết sức tuyên truyền ý tưởng này, hy vọng rằng người Việt sẽ đóng cửa chợ không bán gì cho chúng tôi, bắt buộc chúng tôi phải nhổ neo, để một mình anh ta buôn bán ở miền bờ biển này” (Barrow II, t. 185-191).

Sự tuyên truyền của người Bồ để đuổi tầu Anh

Về việc thuyền trưởng Bồ, Duomé, vu khống tầu Anh đến để chiếm Đà Nẵng, Barrow còn viết thêm:

“Chúng ta đang ở muà xuân năm sau, 1793, khi hạm đội Anh, trên đường đi Trung Hoa, ngừng lại vịnh Đà Nẵng. Lúc đó, cả miền Đồng Nai đã về tay vua chính thống. Kẻ soán đoạt Nguyễn Nhạc vẫn ở miền Trung; và vương quốc Huế, bao gồm những đất phụ thuộc vịnh Đà Nẵng, được con trai của Quang Trung cai trị, như tôi [Barrow] đã nói ở trên, ngự ở Huế. Trong hoàn cảnh này, ta không ngạc nhiên, khi hạm đội của chúng tôi đến, người bạn Bồ Đào Nha, Manuel Duomé, đã khéo lợi dụng hoàn cảnh, để gieo mối lo ngại và ngờ vực, khiến chúng tôi không thể [ở lại để] làm hại việc buôn bán độc quyền và bèo bở, của y với dân bản xứ. Hình như, đầu tiên hết, họ tưởng chúng tôi phục vụ vua chính thức, từ Sài Gòn ra với ý định chiếm Đà Nẵng. Trong sự tin tưởng như vậy, họ đã hội tụ gần thành phố một binh đội đáng kể, với nhiều voi trận. Tình hình gay go này kéo dài trong nhiều ngày, sau mới thôi.” (Barrow II, t. 219- 220).

Sự kiện này chứng tỏ, có sự tranh chấp quyền lợi gay gắt giữa những người Âu thời bấy giờ, để chiếm độc quyền buôn bán trước, rồi chiếm thuộc địa sau. Họ không từ một thủ đoạn nào để “đuổi” nhau ra khỏi những vùng mà họ cho là “mầu mỡ”.

Hành trình Bá Đa Lộc

Về Bá Đa Lộc Barrow viết trong chương IX:

“Trong thời gian Tây Sơn nổi dậy ở Nam Hà, ba anh em giết vua [Định Vương Nguyễn Phước Thuần] và tất cả những người bị bắt, gia quyến và tuỳ tùng; ở trong triều có một giáo sĩ người Pháp, tên Adran [tức Bá Đa Lộc, chức Giám Mục Adran], trong nhiều văn bản in trong tập “Lettres édifiantes et curieuses”, tự nhận là khâm sứ của Giáo Hoàng ở Nam Hà.

Vị giáo sĩ này rất thân với hoàng gia và cũng nhận được nhiều ân huệ, ông đã lập ở đây một họ đạo và nhà vua, thay vì đán áp, lại che chở. Nhà vua rất tin tưởng ở người này, dù khác đạo, đã giao cho việc dạy dỗ người con trai duy nhất của ông, người sẽ nối nghiệp. [Chỗ này Barrow nhầm Nguyễn Ánh với Định Vương]. Adran, ngay từ những ngày lửa đạn đầu tiên của cuộc khởi loạn, đã thấy, ông và bạn hữu, muốn sống còn, phải trốn tránh.

Nhà vua đã bị địch bắt, nhưng hoàng hậu, hoàng tử, các con và một người chị hay em, được Adran cứu thoát. Nhờ đêm tối, họ rời xa kinh thành [Gia Định] và trốn vào rừng. Ở đấy, trong nhiều tháng, vị vua trẻ của nước Nam cũng như một ông Charles mới [chỉ Charles I (1625-1649) vua Anh và Ái Nhĩ Lan], trốn cùng với gia đình, không dưới lùm cây sồi rậm rạp mà dưới lùm đa hay bồ đề vì [thiêng] ở đây không ai dám xâm phạm. Một nhà tu công giáo tên Paul [Paul Nghị, tức Hồ Văn Nghị] liều mình đem đồ ăn mỗi ngày, cho đến khi [quân đội đi lùng] không còn tìm kiếm nữa và sau cùng được lệnh rút về.

Sau khi quân thù rút lui, những người đi trốn trở về Sài Gòn, dân chúng kéo nhau đến dưới cờ của vị vua chính thức, được họ tôn lên làm vua dưới tên của cha ông, vị vua cuối cùng, Caun-shung.

Cùng thời điểm này có chiến hạm Pháp do một người tên là Manuel điều khiển, đậu ở Sài Gòn cùng với 7 tầu buôn Bồ Đào Nha và rất nhiều thuyền buồm và tầu Trung Hoa. Theo lời khuyên và sự giúp đỡ của Adran, hạm đội Bồ nhập trận [đánh Tây Sơn] với khí giới được trang bị bí mật, tấn công chớp nhoáng hạm đội địch đậu ở Qui Nhơn. Gió mùa thận tiện. Đoàn chiến hạm xông vào vịnh nơi hạm đội địch đang bỏ neo bất động. Được cấp báo, quân địch lên tầu, đổ xô ra đánh, chiến hạm Pháp thua, người Pháp không tiếc lời ca tụng lòng dũng cảm [của Manuel]. Bọn chỉ huy tầu Bồ bỏ chạy tuốt sang tận Macao. Ông hoàng trẻ tuổi tỏ ra cam đảm và điềm tĩnh nhưng vì ít quân đành phải rút lui” (Barrow II, t. 200-202).

Đây là đoạn văn “tiêu biểu” có thể là đoạn văn đầu tiên, viết về giai đoạn này.

Nó có nhiều sai lầm “tiêu biểu”, và những sai lầm như vậy, sẽ còn được lập lại nhiều lần trên các văn bản của những người viết sau.

Sau đây là những sai lầm chính:

1- Vì không hiểu rõ liên hệ gia đình phức tạp trong triều Nguyễn lúc bấy giờ, cho nên người viết thường lẫn lộn cha, con, cháu, với nhau, và viết sai đi.

2- Nguyễn Ánh không phải là con Định Vương, mà là cháu gọi ĐịnhVương bằng chú ruột.

3- Nguyễn Ánh trao con là hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc dạy, chứ không phải Định Vương trao con cho Bá Đa Lộc.

4- Tuy nhiên sau đó, Barrow cũng không đi sâu nữa trong sự sai lầm này, ông vẫn coi Hoàng tử Cảnh là học trò của Bá Đa Lộc, không phải như Sainte-Croix, từ đầu đến cuối đều nhầm Nguyễn Ánh với Hoàng tử Cảnh, và coi Nguyễn Ánh là học trò của Bá Đa Lộc. Rồi sau đó, một số tác giả Pháp – Việt, sẽ biến sự sai lầm này thành “sự thật ” để thổi phồng công nghiệp của Bá Đa Lộc bên cạnh Nguyễn Ánh, sẽ nói đến sau.

5- Việc giết Định Vương Nguyễn Phước Thuần là do Nguyễn Huệ trách nhiệm, bởi lần đánh Gia Định năm 1777, không có Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ.

6- Lúc ấy, Nguyễn Ánh trốn một mình, chưa có vợ, cũng chưa có con. Bà mẹ đang ở Quảng Trị, đến tháng 4/1799, mới rước về Gia Định.

7- Việc Adran (Bá Đa Lộc) đưa Nguyễn Ánh và gia đình chạy trốn là không có thực.

8- Hồ Văn Nghị, liều mình đem thức ăn cho Nguyễn Ánh, có thể rất thực, chúng tôi sẽ nói đến sau.

9- Sau khi trốn, về lại Sài Gòn, Nguyễn Ánh được dân chúng tôn làm vua, cũng sai. Nguyễn Ánh xưng vương năm 1780, tức là ba năm sau.

10- Manuel hay Mạn Hoè, chết ở mặt trận Ngã Bảy (Biên Hoà) năm 1782, chứ không phải ở Quy Nhơn. Việc 7 tầu Bồ Đào Nha tham chiến chưa biết hư thực thế nào.

Ở đầu, Barrow có nhắc đến tập Lettres édifiantes et curieuses, vậy xem chừng ông lấy tư liệu này từ nhà dòng. Và những sai lầm cũng phát xuất từ đấy. Tuy nhiên Maybon lại dùng thoại Bá Đa Lộc “cứu” Nguyễn Ánh của Barrow, (Maybon, Histoire moderne du pays d’Annam, Plon, 1920, t. 192-193, note số 2) có lẽ bởi vì nó phù hợp với thoại Bá Đa Lộc “cứu mạng” Nguyễn Ánh, được phía Pháp chủ trương.

Nhưng, những đoạn Barrow viết về thời kỳ trôi nổi của Nguyễn Ánh, việc gửi hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc sang Pháp cầu viện, khá gần với những điều ghi trong chính sử.

Barrow có chép lại bản hiệp ước cầu viện Versaillles 28/11/1787] (t. 208-210), nhưng bản này hơi khác với bản “chính thức”. Rất có thể Barrow đã có một văn bản khác.

Theo Barrow, qua nhiệm vụ này, Bá Đa Lộc được “thăng thưởng” như sau:

“Ngoài những điều ước [ghi trong bản hiệp ước], còn có vài điều nữa, ít quan trọng hơn, nhưng tất cả, như chúng ta thấy, đều rất có lợi cho nước Pháp. Adran được giáo hội thăng chức Giám Mục Nam Hà và được nhậm chức Đặc sứ toàn quyền (Ambassadeur extraordinaire et plénipotentiaire) [của Louis XVI] ở triều đình này [triều đình Gia Long]” (Barrow II, t. 211).

Về vấn đề xung đột giữa Conway và Bá Đa Lộc ở Pondichéry, khiến Conway từ chối không chịu xuất quân giúp Nguyễn Ánh, Barrow đưa ra một giai thoại “lèm bèm” có lẽ được truyền tụng trong giới ngoại giao Anh ở Pondichéry: vì Bá Đa Lộc khinh bỉ một người đẹp, bà de Vienne, là vợ một sĩ quan tuỳ viên của tướng Conway và cũng là nhân tình của tướng Conway, nên mới có sự khủng hoảng trong mối liên lạc giữa hai người.

Sự thực có lẽ đơn giản hơn: De Conway, gửi tầu về Nam Hà thám thính, biết tình trạng sức mạnh vô địch của Quang Trung lúc bấy giờ, và khám phá ra những “báo cáo láo” của Bá Đa Lộc về sự tồi tệ yếu kém của quân Tây Sơn, nên ông đã viết thư thẳng cho Louis XVI; vì thế Louis XVI quyết định không giúp nữa.

Về việc Bá Đa Lộc trở về Sài Gòn tay không, Barrow cho biết: Bá Đa Lộc về Sài Gòn trên một tầu buôn nhỏ, đem theo khí giới và đạn dược, nhưng thuyền trưởng Richerie [Richery] (bị buộc tội) đã bán phần lớn trọng tải của tầu này ở Malaca, lấy tiền bỏ túi (Barrow II, t. 213-216).

Sau cùng, Barrow đã dành cho Bá Đa Lộc, những lời lẽ đặc biệt tôn kính:

“Phải công bình với linh hồn Adran, người đã mất năm 1800, [ông mất ngày 9/10/1799] mà công nhận rằng, tính tình của vị đế vương, sự trở về nước của ông, chiến thắng của ông, những tiến triển ở nước ông, trong khoảng thời bình và tất cả những tiến bộ nhanh chóng trong mọi địa hạt khoa học và nghệ thuật, những cơ sở, nhũng công xưởng, hoàn toàn nhờ vào sự hiểu biết, vào tài năng và vào sự gắn bó trung thành của giáo sĩ này. Nhà vua cũng yêu quý ông đến độ khâm phục. Vua thường gọi ông là danh sư (maître illustre) [thực ra là thượng sư], ở bên Tầu tiếng này chỉ dành riêng để chỉ Khổng Tử” (Barrow II, t. 234-235).

Sau đó Barrow kể một chuyện, có lẽ vẫn rút từ tài liệu nhà dòng: Khi Bá Đa Lộc mất, được chôn cất theo thánh lễ công giáo, nhưng sau vua sai cải mộ và chôn lại theo nghi lễ Việt Nam, làm cho các cha cố hết sức phẫn nộ. Ông viết: “Nhiệm vụ của Bá Đa Lộc lúc sinh thời cũng không dễ dàng, vì vừa là cố vấn của vua lại là thày dạy con vua, dĩ nhiên ông bị các quan ganh tị” (Barrow II, t. 235). Tuy nhiên vẫn theo Barrow, nhà vua lúc nào cũng giữ trọn tình bạn và lòng tin đối với ông cho đến khi ông mất (Barrow II, t. 236).

Những nhận định của Barrow về Bá Đa Lộc, tuy rút từ tư liệu nhà dòng, nhưng được viết với sự thận trọng cần thiết, khác hẳn lối viết sau này của những người Pháp như Faure. Rồi chúng ta sẽ khám phá ra mối liên hệ giữa Nguyễn Ánh và Bá Đa Lộc không phải hoàn toàn tốt đẹp như những gì vẫn được nhà dòng truyền tụng. Nhiều lần Bá Đa Lộc đã muốn bỏ đi, trong những trường hợp khẩn cấp, vv… Tất cả những vấn đề này, sẽ được bàn lại sau.

Về công trạng của những người lính Pháp giúp Nguyễn Ánh, Barrow có nhắc đến trận Thị Nại 1792, ông viết:

“Mùa xuân 1792, ông [Nguyễn Ánh] xuống thuyền đi đánh Qui Nhơn, để trên đầu hạm đội, 2 sĩ quan Pháp, quản hai tầu chiến Tây phương. Người ta đồn rằng, một trong hai người này, ông Dayot, đã làm cho hạm đội địch thiệt hại lớn, đốt cháy, đánh đắm, hoặc xâm chiếm tất cả những thuyền gặp trên đường. Hăng say chiến thắng, tiến sâu quá, thuyền ông bị nạn. Người ta cũng đồn rằng, nhà vua, tuy chứng kiến tai nạn có thể làm cho ông thua trận, vẫn tỏ chút mãn nguyện, nói: “Ông ấy đã làm nhiệm vụ của mình, tôi không mong ông ấy làm cả nhiệm vụ của tôi”. Nguyễn Nhạc không ngờ trận tấn công này, ngày hôm ấy, ông cùng triều đình đi săn cách [Quy Nhơn] ba mươi dặm (trang 117-118).

Đó là đoạn văn duy nhất Barrow viết về công trạng của những người lính Pháp giúp vua Gia Long, và viết với sự thận trọng “người ta đồn rằng”.

Triều đình Cảnh Thịnh tiếp hạm đội đại sứ Anh

Phần quan trọng nhất trong chương X, là đoạn Barrow mô tả việc triều đình Cảnh Thịnh tiếp phái đoàn Anh. Barrow viết:

“Như tôi đã nói trong ở trên, khi những lời vu khống man trá của Manuel Duomé loan truyền báo động về sự ghé bến của hạm đội chúng tôi, được giải toả, chợ búa càng ngày càng có nhiều thực phẩm hơn và các quan chức đối đãi với chúng tôi bớt gay gắt hơn. Đã có sự tin cậy lẫn nhau, có những thông giao nối kết không ngừng giữa những người dân cảng với tất cả thành phần của hạm đội: các sĩ quan và quan chức ngoại giao đoàn, vì công việc, hay vì hiếu kỳ, muốn lên bộ vài ngày, đều được chính thức mời ăn tối; về phiá Việt, mỗi ngày có một vài người lên thăm hạm đội của chúng tôi, họ cũng được mời ăn bữa thường, mặc dầu món ăn của chúng tôi chắc không hợp vị họ lắm (…)

Vì trong thành phố không có nơi nào lớn để tiếp đãi một phái đoàn đông người như chúng tôi, nên quan trấn thủ cho dựng một phòng lớn, bằng tre, luôn luôn tiện dụng trong những lúc cần kíp, xong trong vài giờ: mái và bốn phía được phủ bằng chiếu đan siết và dày. Trong phòng bầy một dãy bàn nhỏ đặt ghế ngồi hai phiá, khoảng 20, 24 người ngồi thoải mái.

Người Trung Hoa có thói quen bầy đầy kín bàn ăn những điã, hay những bowls (bát, tộ?). Nhưng người Việt, còn lễ độ quá dân láng giềng, nên họ không chỉ bầy đầy bàn thức ăn, mà còn bầy bowls tô trên hai ba chồng. Tôi nghĩ, có thể đếm không dưới 200 bowls, chưa kể những chén cơm mà họ đưa tay cho thực khách, thay thế bánh mì. Cơm ở xứ này cũng như Tầu và hầu như tất cả phương Đông, là nền của thức ăn. Họ không dùng khăn ăn, không dùng dao và niã, cũng không có đồ uống, không có cốc; nhưng họ để trước mặt mỗi ngưòi một thià bằng đất nung, hai cái gì giống như ống hay que [đũa] bằng tre, hay gỗ hồng, hay gỗ đàn hương (santal), nhiều khi bọc bạc, gióng như [đũa] Tầu, mà người Anh gọi là chop-sticks.

Những bowls (tô, bát) đựng đồ ninh nấu (ragouts), thịt bò, thịt lợn, thịt gà, cá, cắt miếng nhỏ, hầm, nấu với rau, làm súp và nước cốt, nêm khác nhau, và dể các thứ gia vị khác nhau. Không có thịt quay, cũng không có món gì khô; không có rượu vang, cũng không có ruợu mạnh gì cả; cũng chẳng có nước uống trong cả bữa; nhưng sau khi ăn, được mời seau-chou Tầu [trà Tầu?] trong chén sứ.

Vì cả hai bên đều không biết tiếng của nhau nên không nói chuyện được, chúng tôi không kéo dài bữa ăn. Quan trấn thủ hay tướng trấn thủ không cho chúng tôi danh dự được ăn cùng.

Nhưng bình thường trong những dịp như thế này, ông ngồi ở đầu phòng ăn, dựa trên sập vuông, có trải chiếu, hút thuốc, ăn trầu, trong khi hai ba tên hầu phe phẩy kéo cái quạt lông công cho mát. Bình thường ăn xong chúng tôi sang phòng xem hát, cũng là một nhà rạp bằng tre. Ở đó, cũng giống như bên Tầu, có sẵn những diễn viên sẵn sàng đóng tuồng suốt ngày, lúc nào cũng diễn hăng say, dù không có người xem cũng như lúc đầy khán giả, bởi vì được thuê diễn cả ngày, cho nên họ hoàn toàn thản nhiên trước sự đông hay vắng khách, miễn là được trả lương mỗi khi diễn xong.

Tất cả phân khu Nam Hà, nơi có vịnh Đà Nẵng, ở dưới quyền cai trị của vua trẻ Quang-tung [Quang Toản], con trai của ông tướng ngụy [chỉ Bắc Bình Vương] người đã chiến thắng Tổng đốc Quảng Đông (…)

Cung vua ở Huế, cách Đà Nẵng 40 dặm. Ngay khi biết chắc sự thông thuận của chúng tôi đối với ông, nói khác đi, sự trung lập của chúng tôi [đối với miền Nam], ông gửi một quan đại thần đền mời ông Đại Sứ vào triều. Sứ thần trả lời từ chối, vì nhiều lý do, mà lý do chính là vì thời gian không cho phép dự buổi lễ này (…) Chúng tôi thích lợi dụng cơ hội có ít ngày để đi thăm các làng xóm xung quanh (…).

Lá thư của ông vua trẻ [lúc đó Quang Toản mới 11 tuổi, thái sư Bùi Đắc Tuyên làm phụ chính] biểu dương đầy tình cảm cao đẹp của nhà vua đối với dân tộc Anh; và để chứng minh, ông gửi quan quân mang một món quà nhỏ cho những người trong hạm đội (chữ vua dùng như vậy). Món quà gồm 10 con trâu, 50 lợn, khoảng 300 gà vịt, với hoa quả, rau và hành củ. Những thức bồi bổ này được chở đến bằng thuyền buồm, đằng trước có một chiếc thuyền chèo dài, sơn và trang hoàng bằng cờ và biểu ngữ, có các quan, theo nghi lễ.

Sứ thần viết thư trả lời và tặng lại vua 1 khẩu súng trường đẹp, bắn hai phát liền, kèm phụ tùng và một cặp súng lục bằng gang có lưỡi lê, một thanh gươm cán đồng, nhiều tấm vải và nỉ lớn mầu đỏ thắm. Sứ giả của vua, lúc đầu mặc áo dài lụa, thêu hình hổ và rồng, giống như bên Tầu, nhưng khi lên tầu Lion, ông đổi y phục và mặc hai ba chiếc áo lồng bằng tơ trắng mỏng.

Một sự tò mò, do lỗi chúng tôi, đã phá rối trong chốc lát, sự thông cảm giữa hai bên. Vì muốn vẽ một bản đồ đúng của vùng vịnh tuyệt diệu này cùng với hải cảng, một buổi sáng, mấy người trong bọn tôi lấy thuyền, đi sâu vào bờ đông, đo một căn cứ và lấy các góc độ cần thiết để xác định vị trí những điểm chính. Chúng tôi chọn giờ sáng sớm và làm thực nhanh, tưởng thoát khỏi con mắt của người dân ở đây; nào ngờ một ông quan đến ngay, bảo cho biết là quan trấn thủ rất bất bình vì lối hành sự này và yêu cầu ngừng ngay mọi việc đo đạc.

Một sự vụng về nữa, càng làm tăng mối nghi ngờ, khiến họ cho rằng chúng tôi có những mục tiêu muốn giấu: Một viên sĩ quan tầu Lion, ban đêm, đi dò dòng sông [Hàn] dẫn ra Hội An, anh ta quá sốt sắng nhưng lại bất cẩn, bị bắt với cả ê-kíp và chiếc xà lúp, bị giam trong một đồn nhỏ. Không thấy tin tức gì, chúng tôi tưởng xà-lúp đã bị chìm, không ai thoát nạn. Sau cùng, quan quân lên tầu Lion, báo cho chúng tôi biết, và cay đắng than phiền chúng tôi hành sự không thẳng thắn. Sứ thần nói ông không biết việc này và xin thả ngay viên sĩ quan, gửi về tàu, để anh ta sẽ phải trả lời trước cấp trên.”

Rút cục rồi mọi việc cũng được bỏ qua. Barrow viết tiếp:

“Nhà vua, trong lá thư thứ nhì, có ý muốn mở cửa buôn bán hợp pháp với chúng tôi. Ông gửi kèm với thư này, quà cáp gồm ngà voi và 10 giỏ hạt tiêu, biếu Sứ thần và tặng thủy thủ đoàn 3000 giỏ gạo, nặng khoảng 100 tạ.

Ông Đại sứ chưa biết thành phố Đà Nẵng; nên những vị chức sắc ở đây, tỏ chút lòng thành, muốn tổ chức một buổi lễ tiếp đón. Ông Đại sứ chọn ngày 4/6, sẽ lên bờ dự lễ sinh nhật đức vua cùng với người Việt. Nhưng tối hôm trước, chúng tôi đã thấy một chuyển động bất thường trong thành phố, một số binh sĩ lớn lao hành quân trong và ngoài thành, và sau cùng là đàn voi trận. Không thể biết đó là ngẫu nhiên, hay do những nghi ngờ trước, hay để biểu dương sự rạng rỡ cho buổi lễ; nhưng về phía mình, chúng tôi luôn luôn đề phòng, gửi ngay hai đơn vị quân đội đến con sông đối diện với thành phố để bảo đảm sự triệt thoái nếu cần. Tuy nhiên ngày hôm đó mọi việc diễn ra trong không khí hết sức hoà hợp…” (trích dịch Barrow, t. 241- 251).

Đoạn văn này cho thấy nhiều vấn đề:

Trước tiên là sự hiếu khách hay là sự vồn vã thái quá của chính quyền Phú Xuân, muốn “kết thân” với người Anh, cho nên không nghe những lời vu khống của người Bồ Đào Nha. Mặc dù tiếp khách tử tế, vồn vã, nhưng vẫn chưa biết lòng dạ của họ như thế nào.

Về phía Anh: từ chối không đến Huế, theo Barrow, lấy lý do là không có thì giờ, và ông có viết thêm: vì biết sang Tầu sẽ có lễ to hơn, đẹp hơn ở Huế. Cũng đúng. Nhưng có lẽ còn những lý do khác tác giả không nói ra:

- Không muốn có liên lạc chính thức với Tây Sơn vì sợ Nguyễn Ánh nghi kỵ, không giao thiệp, nhất là lúc đó Quang Trung đã mất, Nguyễn Ánh ở thế thượng phong.

- Ở lại Đà Nẵng để đo đạc, dò thám vùng đất này mà họ cho là có giá trị chiến lược. Sau này, các sứ bộ Anh đến Huế đều xin Cù Lao Chàm làm đất mở thương điếm, chứng tỏ những gì Barrow viết ở đây, chắc ông đã báo cáo với chính phủ Anh trước rồi.

Sau cùng, sự “tin cậy” lẫn nhau giữa đôi bên Anh-Việt chỉ là bề ngoài. Có thể nói đó chính là bản chất mối lên hệ của người Âu đối với các dân tộc mà họ nhòm ngó.

Thuật đóng thuyền, tầu của người Việt

Một điểm đáng ngạc nhiên nữa là chỉ trong một tháng, mà Barrow đã có những khám phá sâu sắc về kỹ nghệ đóng tàu, thuyền của ta, ông viết:

“Một ngành đặc biệt mà hiện nay người nước Nam có thể tự hào rất hoàn hảo là đóng tầu; và phải nói ngay, họ được như vậy một phần là nhờ có nhiều gỗ quý và gỗ lớn. Những du thuyền của họ đẹp tuyệt vời: dài từ 50 đến 80 pieds [1 pied Anh=0m3048]. Đôi khi tầu chỉ đóng bằng 5 mảnh ván, mỗi mảnh dài suốt chiều dọc tầu, ghép lại với nhau bằng mộng và chốt gỗ, rồi siết chặt bằng sợi tre, không cần nẹp mà cũng chẳng cần dây. Đầu và đuôi tầu rất cao được trang trí bằng những hình hài trạm trổ rồng, rắn kỳ dị, sơn mầu và dát vàng. Một số lớn cột buồm treo đầy cờ hiệu hay băng-rôn. Những bó lông đuôi bò nhuộm đỏ, đèn, ô, dù, và nhiều loại trang trí khác, buộc trên đầu cọc cắm hai bên mạn tầu, cho biết cấp bậc các vị quan trên tầu; và vì họ đứng đằng trước, nên nếu người chèo quay lưng lại họ là bất nhã (tục lệ của những dân tộc này cũng như người Tầu khác hẳn phần đông những nước khác trên thế giới), cho nên, người chèo phải quay mặt về phiá đầu tầu, và đẩy chèo đằng trước họ, thay vì kéo chèo sau lưng, như Tây phương. Kẻ hầu người hạ và hành lý để phía sau tầu.

Tầu buôn gần bờ biển, tầu đánh cá, đánh hải sâm và tìm tổ yến ở quần đảo Hoàng Sa, có nhiều loại kiến trúc khác nhau. Phần lớn giống như những thuyền tam bản của Tầu, sàn trải chiếu cho cả gia đình ngồi. Một số khác, cả thân tầu lẫn thuyền cụ, giống tầu Mã Lai.

Còn tầu buôn của họ giống như ghe buồm của người Tầu, cả hình dáng lẫn kiến trúc, nếu nhìn theo lối đóng tầu [Tây phuơng] hiện nay, thì chẳng thể coi là hoàn hảo; cách đóng tầu của họ không hề thay đổi từ nhiều nghìn năm nay, song lối kiến trúc thượng cổ đó, đáng được kính trọng. Vả lại tầu buôn không cần phải chạy thật nhanh khi lẩn trốn hoặc rượt bắt, là phẩm chất chính của tầu chiến. Chủ tầu cần an ninh hơn thần tốc. Ngoài ra, nhà buôn vừa là chủ vừa là người lái tầu, vấn đề trọng tải đối với họ là quan trọng hơn cả. Để chở được nhiều hàng hóa của các thân chủ khác nhau, tầu buôn được chia ngăn dành cho mỗi thân chủ. Vách ngăn ấy là những tấm ván dầy 2 tấc được sắp đặt và trám kín các lỗ hở, khiến nước không thể thấm qua. Dù có chống việc chia hầm tầu thành ngăn đến thế nào (bởi nó gây khó khăn cho việc chất hàng) cũng không ai chối cãi được, là lối kiến trúc này đem lại những lợi điểm quan trọng cho hải hạm: Nhờ những bức vách giao nhau dưới hầm, tầu vững chắc thêm, có thể chạm vào đá mà không suy suyển gì. Hoặc nếu hầm tầu bị thủng ở một ngăn nào đó, thì hàng hoá ở những ngăn khác không bị thấm nước lây; và vì tất cả đều được liên kết bền chặt với nhau nên thân tầu chịu được những sốc không quá mạnh. Thuỷ thủ nào cũng biết khi một hải hạm bị trúng [sốc hay đạn] nếu nó gẫy thì dấu hiệu đầu tiên là sàn tầu rời ra từng mảnh. Nhưng khi sàn tầu được nối kết chặt chẽ bằng những vách ván giao nhau thì nó khó bung ra. Cho nên, ở Anh bây giờ người ta cũng đang nghiên cứu lối làm tầu thượng cổ này của người Tầu. Người ta còn đề nghị cho chúng tôi những phương tiện du lịch bình yên, trên những thuyền chèo lớn, có bánh xe nước (roues de puits) đặt cạnh sống tầu (quille) hoặc thay thế sống tầu, và còn có những “phát minh” khác, dù người ta cho nó những tên gì đi nữa, thì tất cả, đều đã được người Tầu sử dụng thông thường từ hơn hai ngàn năm nay.

Mặc dù vị vua trị vì xứ này [Nguyễn Vương] hiện nay, trong chừng mức nào đó, đã chao đảo lối làm tầu chiến cũ, tuy nhiên ông cũng không bỏ hẳn những lề thói bình dân -ở những xứ Á Châu này, ý dân là ý trời- đã trở thành thiêng liêng, khó đạp đổ. Ông vẫn kính trọng những lề thói ấy, nên ông chỉ thay đổi những gì ở trong bụng tầu (carène) và tất cả phần chìm dưới nước, còn phần nổi ông vẫn giữ nguyên lối kiến trúc của nước Nam, như cột buồm, buồm và thuyền cụ [dây, cáp, trục, buồm, ròng rọc ...] Thực ra, thì những dây cáp dầy [của Tây phương] làm sao có thể thay thế được những sợi tre mềm, dai, bền và nhẹ trong cấu trúc chính phần nổi của tầu; vì thế, ta không thể nào không thán phục sự phán đoán hoàn mỹ của nhà vua, vừa thận trọng vừa năng động, đã chọn giải pháp trung dung, đạt được lợi ích thực thụ mà không cần một sự thay đổi trông thấy.

Vài năm trước đây, Nhật Hoàng đã cho một bài học đáng nhớ về sự kiên trì theo cổ lệ. Khi người Hoà Lan đến Batavia, đem biếu Nhật Hoàng một số quà trong đó có một chiếc tầu chiến. Sứ thần thấy hoàng đế xem xét kỹ tầu này, liều tâu sẽ đem thợ Hoà Lan sang chỉ cho người Nhật nguyên tắc đóng tầu. Nhật Hoàng sai người đến hỏi Sứ thần rằng người Hoà Lan biết đóng tầu như thế này từ bao lâu rồi. Sứ thần cho biết độ 300 năm. Nhật Hoàng bảo: “Ngươi về nói với ông ấy [sứ thần] rằng hàng ngàn năm nay thần dân của ta biết đóng những chiến thuyền mà ông ấy thấy đậu trong các hải cảng của ta, và ta thấy chẳng ai than phiền gì về công dụng của chúng cả. Vậy ta không việc gì phải tự lăng nhục mình và dân tộc mình, bằng cách bỏ những gì đã được trải nghiệm qua bao nhiêu thế kỷ, để lấy một cái mới cải cách hôm qua. Những hạm đội Hoà Lan có thể tốt ở Hoà Lan, nhưng không tốt ở nước Nhật. Ngươi nhớ nói thêm rằng ông ấy có thể đem cái quà này về” (Barrow II, t. 287-293).

Những dòng trên đây khiến những ai cho rằng cái gì Tây phương cũng “làm chủ” cả, sẽ phải thận trọng hơn. Dù có nói đến “các sĩ quan” Tây phương, nói đến công trạng của “quân sư” Bá Đa Lộc, Barrow luôn luôn giới hạn “công trạng” này trong một chừng mức nào đó. Ông tôn trọng các giá trị phương Đông và không hề xác nhận: trước khi người Âu đến, nước Nam không có tầu chiến, không có thành lũy (Vauban), không có đại bác, không có tổ chức quân đội… như một số người Pháp lầm tưởng. Sau cùng, cũng nên nói thêm: việc chia ngăn trong hầm tầu chở hàng của người Tầu và người Việt hiện nay vẫn còn thấy áp dụng ở những các- gô trên thế giới.

Nhật Hoàng cho những kẻ đao to búa lớn về sự sức mạnh Tây phương một bài học để đời.

Cũng nên nói thêm một chuyện nữa, năm 1942, ở Hà Nội, Van Imbert cho in cuốn Le séjour en Indochine de l’ambassade de Lord Macartney (1793) [Những ngày lưu lại Đông Dương của đức ông Đại sứ Anh Macartney], nội dung có những điều chẳng biết Imbert lấy ở đâu, vì không thấy có trong tác phẩm của Barrow, ví dụ như vài việc sau đây:

“Người Anh đi lạc trong thành Quảng Nam không thấy có một khẩu đại bác nào“.

Hoặc:

“Khi Macartney tới, viên trấn thủ Quảng Nam nài nỉ người Anh bán khí giới và đạn dược, lộ cho họ thấy rằng Tây Sơn cần được giúp với bất cứ giá nào!” (Tạ Chí Đại Trường trích dẫn trong Lịch sử nội chiến Việt Nam, trang 218 và 220).

Lối viết của Van Imbert dường như cũng nằm trong đường lối hạ bệ người Việt nói chung: phiá Tây Sơn, là không có súng ống gì cả, phải “van lậy” người Anh giúp, còn phiá Nguyễn Ánh vì được người Pháp giúp nên “có khí giới tối tân”.

Thực ra, chúng ta có kỹ nghệ đúc từ trước, trong khoảng hai mươi năm từ 1660 đến 1682, một người Ấn Độ lai Bồ Đào Nha hay Y Pha Nho, tên Joao Da Crus (Jean de la Croix) đã mở lò đúc súng đại bác cho chúa Hiền Nguyễn Phước Tần (1648-1687) dựng nên khu Thợ Đúc ở Huế (Cadière, Le quartier des Arènes, Jean de la Croix et les premiers Jésuites, (BAVH, 1924, IV, t. 307- 332). Nghề đúc súng, như vậy đã có ở ta, ít nhất, từ thế kỷ XVII. Hà Nội cũng có phố Lò Đúc.

Khi Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân, ông chiếm được cả khu Thợ Đúc ở Huế. Súng đại bác của Tây Sơn, khi công kích các thành Diên Khánh và Quy Nhơn lợi hại chẳng kém gì súng của Nguyễn Ánh. Điều đó càng chứng tỏ không phải người Pháp “dậy” chúng ta đúc súng.

Những lợi ích buôn bán với nước Nam

Trong chương XI, tựa đề Những lợi ích buôn bán với nước Nam (Barrow II, t. 307-309), Barrow tỏ ra một nhà chính trị và chiến lược tầm cỡ. Có lẽ ông là người ngoại quốc đầu tiên đã nhìn ra thâm ý của Bá Đa Lộc, khi ký kết thoả ước cầu viện ở Versailles tháng 11/1787.

Về thỏa ước này chúng tôi vẫn tin rằng Bá Đa Lộc đã tự biên tự soạn không hề hỏi ý Nguyễn Ánh; bản “quốc thư” ông đưa ra để chứng tỏ “triều đình” đã bàn xong thoả ước và trao cho ông thẩm quyền ký chỉ là bản quốc thư giả, vì không tìm thấy bản gốc ở đâu. Vậy ta cần phải nghiên cứu tất cả những chi tiết này bởi vì không một ông vua nào lại trao một lúc bốn vị trí chiến lược quan trọng vào bậc nhất của nước mình là Đà Nẵng, Hải Vân, Cù Lao Chàm và Côn Lôn, cho Pháp để đổi lấy một số lính và vài tầu chiến.

Nhưng khi đọc những dòng sau đây của Barrow, chúng ta mới thấy ông chỉ ở Đà Nẵng có một tháng mà đã thông suốt điạ lý chính trị của nước ta. Ông viết:

“Giám mục Bá Đa Lộc, khi thương lượng bản hòa ước giữa vua Louis XVI và vua nước Nam, đã cho thấy rõ mối ràng buộc nào đó của ông đối với vị vua này, nhưng ông ta cũng không quên quyền lợi của vua Pháp. Những điều kiện trong bản hiệp ước tỏ cho biết khi đòi nhượng bán đảo Turon [Đà Nẵng] cho nước Pháp, ông đã rất chú ý đến những điểm [chiến lược] trên bờ bể nước Nam. Ông ta biết rất rõ nếu nước Pháp có được mảnh đất này, thì nó sẽ làm chủ một cơ sở vững chắc ở nước Việt. Thực vậy, mỏm bán đảo Turon (hay Hansan) [Cửa Hàn] đối với nước Nam cũng như Gibraltar đối với nước Y Pha Nho, mà còn hơn thế, bởi ngoài vị trí kiên cố không thể đánh chiếm được, nó còn quan trọng hơn nữa vì có một hải cảng và một bến tầu quanh năm khuất gió, hoàn toàn thích hợp với một hạm đội lớn. Đó cũng là nơi các hạm đội có thể dừng lại bất cứ lúc nào để chấn chỉnh, sửa chữa trong vịnh, nhất là hai bên bờ có nhiều thung lũng phì nhiêu, nhiều suối trong mát. Ngay cạnh đó có một đảo nhỏ nối với đất liền bằng một giải đất khi thủy triều xuống mới nổi lên [Hòn Sơn Trà?], chiến hạm lớn thế nào cũng có thể phơi mình trên ấy để sửa chữa thân tầu. Trực diện với bán đảo là một vùng đất cao đủ để xây một thành phố nhỏ với một xưởng đóng tầu và đủ loại cửa hàng, có thể trở thành địa điểm phòng thủ nếu xây thêm các thành lũy kiên cố.

Một đảo nhỏ tên Callao [Cù Lao Chàm], cách vịnh Đà Nẵng 30 dặm về phía nam cũng thuộc vào vùng đất sẽ nhượng [cho Pháp]. Đảo này chế ngự hoàn toàn cửa chính [Cửa Đại] của con sông [Thu Bồn] chảy qua Fai-Fou [Hội An], thành phố mà ngày trước người ngoại quốc đến buôn bán. Đảo này hoàn toàn không thể vào được, trừ phía đối diện với cửa sông [Cửa Đại] nơi đó có một thung lũng nhỏ có nhiều nước, ngay bên bờ biển, và ở đó tất cả các hạm đội lớn nhỏ đều có thể vào đậu một cách an toàn.

Rất dễ nhận ra quan điểm của Pháp đối với bộ phận này của bờ biển Việt. Những điều khoản trong bản hiệp ước cho thấy rõ chủ đích kiến tạo và trang bị một hạm đội khá quan trọng để đe dọa những đất đai sở hữu của chúng ta ở Ấn Độ; và chắc chắn là ý định này sẽ còn được lập lại. Nước Pháp-Đế quốc [La France-Empire, chỉ thời Napoléon] biết thi hành những điều mà nước Pháp-Vương quốc [La France-Royaume, chỉ thời Louis XVI] chỉ mới dạm ra. Việc Pháp bị đuổi khỏi bờ biển Ấn Độ càng làm cho bờ biển nước Nam trở nên hấp dẫn hơn nhiều; nhất là nếu ta nhìn thấy vị trí này cũng sẽ nguy hiểm và không thuận tiện cho nền thương mại béo bở (profitable) của chúng ta tại Trung Hoa, cũng như những sở hữu của chúng ta ở Ấn Độ” (Barrow II, t. 309).

Không những Barrow nhìn thấy vị trí chiến lược hiển nhiên của Đà Nẵng và Cù Lao Chàm, Ông còn lo ngại nếu Pháp chiếm được những nơi quan trọng này thì sẽ trở thành kẻ thù đáng ngại cho đế quốc Anh của ông. Vì thế, tiếp theo đó, Barrow dùng tài hùng biện để thuyết phục chính phủ Anh, phải bằng mọi giá, thông thương với Việt Nam, vì mối lợi khổng lồ, không thể để cho Pháp cuỗm mất, về các mặt giao thông, chính trị và chiến lược. Ông khuyên chính phủ Anh nên xin Cù Lao Chàm làm nơi để lập thương điếm. Ông cũng đã nghiên cứu cặn kẽ những thổ sản và tài nguyên, của Việt Nam để có thể lên một chương trình đổi chác buôn bán (Barrow II, t. 310-321).

Barrow viết tiếp:

“Xét cho cùng, chúng ta đã tiến sâu, có lẽ quá sâu vào con đường [thuộc điạ] này để có thể lùi mà không nguy hiểm; bây giờ chúng ta phải hết sức thận trọng để tiến tới đích, để bảo toàn và giữ vững nền thương mại này, chính nó đã giúp ta phương tiện để đọ sức với một kẻ thù vừa ghê gớm vừa hùng mạnh [chỉ Pháp]. Con sư tử Anh cần phải toả rộng nanh vuốt hơn nữa để bảo đảm cho dân tộc Anh những cuộc chinh phục [mới] nối tiếp với những cuộc chinh phục cũ, bằng vũ dũng, kỹ nghệ, và sự táo bạo của mình.

Nhưng ngoài vấn đề an ninh mà sự sở hữu bán đảo phồn vinh Đà Nẵng mang lại cho hàng bao hạm đội mà chúng ta đang sử dụng để buôn bán với nước Tầu, còn có sự tai hại nếu để nó rơi vào tay một kẻ thù chủ động và kiên quyết [chỉ Pháp]. Ta chẳng nên trông mong vào những nhỏ nhoi mà nền thương mại ở Ấn Độ đem lại; [ta cần] một hải cảng ở vùng này của thế giới, nơi các hạm đội của chúng ta luôn luôn có được nước ngọt, có thể nghỉ ngơi, sửa chữa. Chỉ nhìn dưới góc độ này không thôi: khi các chiến hạm ta đến nước Tầu còn chưa rõ hướng đi, khi những phương tiện giữ gìn sức khoẻ cho thuỷ thủ đoàn còn kém hơn hiện tại, mà chúng ta có được một cửa bể như thế này, để nghỉ ngơi, chờ tầu đi chậm hoặc bị bão chận lại, là những trường hợp dễ xẩy ra, thì tốt biết mấy. Sẽ còn nhiều khảo sát nữa để chứng minh việc cần phải buôn bán với nước Nam. Ở đây tôi chỉ đưa ra vài nhận xét cho thấy công ty Ấn Độ [Anh] có lợi khi lập một thương điếm trong vùng bán đảo vịnh Đà Nẵng” (Barrow II, t. 312-313).

Sau đó, Barrow phân tích sự thất bại của phái đoàn Hastings năm 1778, vì không chuẩn bị kỹ. Kể cả chủ ý sau cùng cách đây 2 năm [tức là năm 1804], cũng hỏng, vì trong triều chỉ còn thông ngôn là thừa sai Pháp, làm sao biết được họ dịch cho vua những gì mà họ muốn, chúng ta thừa biết họ đối với Anh như thế nào! Và cuối cùng, Barrow vẫn nhất quyết rằng vua Gia Long có cảm tình với nước Anh, muốn giao dịch với nước Anh mà bị Pháp cản trở (Barrow II, t. 325-327).

Đối với chúng ta, những dòng trên đây chứng tỏ ý định thực dân của Pháp và của Anh, đã có từ thời chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn Ánh, qua hành động kín đáo và khôn khéo của Bá Đa Lộc và qua những điều Barrow viết trong tác phẩm này. Vua Gia Long không chấp nhận việc để cho Anh đặt quan hệ ngoại giao và nhượng cho Anh Cù Lao Chàm để mở thương điếm sau này, là sáng suốt và nhìn rộng. Vua Minh Mạng nhất quyết ngăn ngừa Anh và Pháp đặt chân đến Việt Nam dù chỉ là “mở thương điếm” (với những điều kiện nhượng đất) và không nhận Chaigeau làm “lãnh sự” như người Pháp mơ ước, là đúng. Những sự kiện này giúp ta hiểu hơn chính sách của các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức: không cho người Âu lập thương điếm, bởi đó chỉ là mặt tiền của hành động xâm chiếm sẽ đến sau. Sự sáng suốt của các vua, cũng là một trong những lý do khiến nước ta không bị xâm lược từ đời Gia Long.