Đoàn sứ giả Việt Nam tại Paris năm 1863


Năm 1863, Vua Dực Tông (Tự Đức) cử quan Hiệp biện Đại Học sĩ Phan Thanh Giản làm Chánh sứ sang Tây thương nghị về việc xin chuộc ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường đã nhường đứt cho Pháp năm trước đó trong Khoản 2, Hòa ước Nhâm Tuất, 1862.

Trong dịp này, rất một số nhân vật của đoàn sứ giả Việt Nam có ảnh chụp tại Paris. Có lẽ đây là lần đầu tiên một đoàn ngoại giao nước Việt Nam được chụp ảnh; những hình ảnh này mang tính khoa học nhiều hơn là ngoại giao hay chính trị. Hình chụp quan chánh sứ Phan Thanh Giản, tương đối khá phổ quát trong sách in cũng như trên mạng. Bài viết sau đây nhằm giới thiệu môt số hình ảnh trong bộ ảnh đã số hóa của Thư viện Quốc gia Pháp. Đây là một phần ảnh chụp của tác giả Jacques-Philippe Potteau trong Bộ ảnh Nhân chủng học do Thư viện ảnh của Viện Bảo tàng Nhân loại (Paris) phát hành trong khoảng 1860-1869. Đa số trong năm trăm tấm do Jacques-Philippe Potteau chụp là ảnh bán thân chụp nghiêng và chụp trước mặt. Một số nhỏ là ảnh chụp người mặc quốc phục hay triều phục bản xứ.

Về tác giả - Jacques-Philippe Potteau là một nhà tự nhiên học thuộc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Tại Paris. Tuy không phải là người chụp ảnh chuyên nghiệp, ông đã thuyết phục được viện bảo tàng cho phép lập một phòng chụp ảnh ở khu Vườn Thực vật. Tại đây Jacques-Philippe Potteau đã bắt tay vào việc thực hiện bộ ảnh nhân chủng học; ông chụp ảnh tất cả nhân viên của các đoàn sứ giả viếng thăm Paris và Viện Bảo tàng. Bắt đầu từ năm 1861, đến 1862 Jacques-Philippe Potteau ghi lại hình ảnh của các đoàn sứ giả từ Siam (nay là Thái Lan), Nhật Bản. Đến năm 1863, Jacques-Philippe Potteau đã ghi lại hình ảnh một số nhân vật trong đoàn sứ giả Việt Nam tại Paris mà chánh sứ là Hiệp biện Đại học sĩ Phan Thanh Giản.

Ngoài hình ảnh của Chánh sứ Phan Thanh Giản, trong bộ ảnh chụp đoàn sứ giả Việt Nam còn có Phó sứ Phạm Phú Thứ, Bồi sứ Ngụy Khắc Đản. Bộ ảnh đã số hóa này gồm 47 khung chụp các nhân vật trong đoàn sứ giả Việt Nam năm 1863 tuổi từ 17 đến 75 thuộc nhiều thành phần, từ học sinh, lính hầu, người giúp việc, đến các quan văn võ từ hàng thất phẩm đến nhất phẩm triều đình. Đặc biệt là những tấm hình vợ, con trai và con gái của một đại quan triều Gia Long là ông Philippe Vanier (1762-1842), một sĩ quan Hải quân Hoàng gia Pháp.

Tất cả hình ảnh nhân chủng học của tác giả đều có chú thích; tuy nhiên, ở thời điểm đó, tác giả người nước ngoài hiểu biết giới hạn về cách viết tên và địa danh tiếng Việt; người viết tin rằng tên viết trong các phụ chú cạnh hình chụp và những tên tiếng Việt ở đây cũng chỉ là phỏng đoán từ tên không có dấu, ắt có một số sai lầm.

Một số hình trong Tập ảnh Đoàn Sứ giả Việt Nam tại Paris, Pháp (1863)

Chánh sứ Phan Thanh Giản Phó sứ Phạm Phú Thứ
Bồi sứ Ngụy Khắc Đản Quan văn Trần Tề
Thừa vụ lang bộ Lại Tạ Hữu Kế - Quan văn Hồ Văn Nhuận Quan võ Hồ Văn Huân - Phòng ngự sứ Nguyễn Hữu Thần
Quan văn Phạm Hữu Độ Võ công đô uý Lương Văn Thể
Michel Vanier, con của ông Philippe Vanier, đại quan triều Gia Long Nho sĩ Quảng Nam tên Tân
Bà Sam Diam, mẹ của ông Michel Bà Marie Vanier, con của ông Philipple Vanier
Hạ sĩ Nguyên Ông Hiếu, lính hầu

Chú thích ảnh theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.
  1. Chánh sứ đoàn Sứ giả Việt Nam, Phan Thanh Giản, Hiệp biện Đại Học sĩ, Kinh lược sứ Nam Kỳ, 68 tuổi, quê ở Vĩnh Long.
  2. Phó sứ đoàn Sứ giả Việt Nam Tả Tham tri bộ Lại Phạm Phú Thứ, 44 tuổi, quê ở Quảng Nam, quan văn, Tòng nhị phẩm.
  3. Bồi sứ đoàn Sứ giả Việt Nam Án sát sứ tỉnh Quảng Nam Ngụy Khắc Đản, 48 tuổi, quê Nghệ An, quan văn, Tòng tam phẩm.
  4. Quan văn, Chánh thất phẩm bộ Hình Hàn Tế [Trần Tề] 39 tuổi, quê ở Nam Định.
  5. Thừa vụ lang bộ Lại Tạ Hữu Kế, 50 tuổi, sinh tại Huế, quan văn, Chánh lục phẩm.
  6. Quan văn Hồ [Ngô] Văn Nhuận, 42 tuổi.
  7. Quan võ Hồ Văn Huân, 50 tuổi
  8. Phòng ngự sứ Nguyễn Hữu Thần, 30 tuổi, sinh tại Huế, quan võ, Tòng ngũ phẩm.
  9. Quan văn Chánh thất phẩm bộ Lại Phạm Hữu Độ, 31 tuổi, quê ở Quảng Bình.
  10. Võ công đô uý Lương Văn Thể (Thái), 43 tuổi, quê ở Quảng Nam, quan võ, Tòng ngũ phẩm.
  11. Michel Vanier, 51 tuổi, sinh tại Huế, con của bà Sam Diam (?) và ông Philippe Vanier, đại quan triều Gia Long.
  12. Nho sĩ Quảng Nam tên Tân, 30 tuổi.
  13. Bà Sam Diam, 75 tuổi, con quan, mẹ của ông Michel, vợ (góa) của ông Philippe Vanier.
  14. Bà Marie Vanier, 40 tuổi con bà Madeleine Seu Dong và ông Philipple Vanier.
  15. Hạ sĩ Nguyên, 36 tuổi, quê ở Thừa Thiên, tóc dài 1m58.
  16. Ông Hiếu, 45 tuổi, sinh tại Huế, trong quân phục của lính hầu.
Nhận xét

Kỹ thuật chụp ảnh vào cuối thế kỷ 19 vẫn còn ở thời kỳ phôi thai - phương pháp chụp ảnh bằng collodion mới phát triển trong những năm 1850; như thế, các tác phẩm của Jacques-Philippe Potteau có thể xem như những tấm hình chụp đầu tiên và còn lưu lại, của quan viên triều đình nhà Nguyễn ở cùng giai đoạn lịch sử. Tập ảnh đoàn sứ giả của Việt Nam năm 1863 tại Paris cho thấy một số chi tiết về nhân dạng, quốc phục, lễ phục, quân phục, và triều phục của Việt Nam lúc đó. Trước ngực triều phục của quan văn có thêu hình chim (cò, hạc), và ngực áo của quan võ thêu hình con hổ không như John Crawfurd tưởng lầm là con lợn rừng như đã ghi trong “Journal of an Embassy from the General Governor of India to the Courts of Siam and Cochi-China; exhibiting a View of the Actual State of those Kingdoms”, năm 1928.

Thành phần đoàn sứ giả năm 1863 đa số là quan viên người miền Trung hay ở kinh thành, ở nhiều phẩm trật [từ thất phẩm đến nhất phẩm cả văn giai và võ giai], chuyên ngành khác nhau [bộ Lại, bộ Hình, nho sĩ] và cả người giúp việc, lính hầu cận.

Một điểm không được tác giả Jacques-Philippe Potteau ghi chú là vai trò và chức vụ của ba nhân vật thuộc gia đình ông Philippe Vanier. Trong Tập ảnh này, Michel Vanier là người Việt Nam duy nhất mặc âu phục. Gia đình ông Vanier tham gia với đoàn sứ giả Việt Nam là điểm đáng chú ý vì Philippe Vanier, vài năm sau khi Vua Minh Mạng lên ngôi, đã cùng bạn là Jean-Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng về lại Pháp (1824). Theo Mark W. McLeod, trong The Vietnamese response to French intervention, 1862–1874, trang 210 (1991) thì Jean-Baptiste Chaigneau Nguyễn Văn Thắng có một con trai hai dòng máu Viêt-Pháp tên Michel Duc Chaigneau (hay Nguyễn Văn Đức), người đã có ảnh hưởng đến chuyến đi của đoàn Sứ giả Việt Nam sang Pháp năm 1863. Nguyễn Văn Đức hẳn nhiên biết Michel Vanier và Marie Vanier vì cha họ là bạn thâm giao cùng sống tại Việt Nam và làm quan dưới triều vua Gia Long, và cả hai đều có vợ người Việt Nam. Đây, The French Connection, có thể chính là lý do tại sao gia đình của Philippe Vanier có hình chụp trong Tập ảnh của đoàn sứ giả Việt Nam.

Philippe Vanier tên tiếng Việt là Nguyễn Văn Chấn (1762-1842), được Vua Gia Long trao quyền chỉ huy tàu chiến Đồng Nai, Bồng Thước, Phi Phụng. Ông Vanier sau đó được thăng chức Khâm sai Chưởng cơ, tước Chấn Oai hầu [quan võ, Tòng nhị phẩm], và trở về Pháp vào năm 1824. (Nguyễn Công Tánh, Việt sử Tân khảo, trang 953. 2003). Theo Trần Tuyết Nhung và Anthony Reid thì ông Vanier có một người vợ Việt Nam theo đạo Ki-tô tên là Madeleine Seo Dong [Việt Nam: borderless histories, trang 16. University of Wisconsin Press. 2006.] Hai người có vài người con trong đó có bà Marie Vanier như tác giả Potteau đã chú. Bà Madeleine Seo Dong mất tại Lorient ngày 6 tháng Tư, 1878 [Salles, André (2006). Un Mandarin Breton au service du roi de Cochinchine, trang 202, Les Portes du Large]. Tuy nhiên, theo như ghi chú của Potteau thì ông Philippe Vanier Nguyễn Văn Chấn còn có một người vợ khác là bà Sam Diam (Hình số 13), mẹ của Michel Vanier. Năm 1863, bà Sam Diam 75 tuổi: bà sinh năm 1788, nhỏ hơn ông Nguyễn Văn Chấn 26 tuổi. Ông Chấn và bà Madeleine Seo Dong sinh bà Marie năm ông 61 tuổi. Ông Chấn và bà Sam Diam sinh ông Michel năm ông Chấn 50 tuổi.

Theo Nguyễn Duy Oanh trong Chân dung Phan Thanh Giản [Bộ Văn Hóa Giáo dục và Thanh niên, 1974] thì Đoàn sứ giả Việt Nam sang Pháp năm 1863 gồm tất cả 63 người. Trong danh sách đó không có tên hai con và vợ cuả Philippe Vanier; cũng trong tập ảnh này, tác giả lầm lẫn khi kể là thành viên Sứ đoàn Việt Nam hai học sinh trường Giám mục d'Adran: một là là Trần Văn Luông [Trần Tử Long], 17 tuổi, sinh ở Sài Gòn, con trai của Trần Tử Ca - Tri huyện Bình Long (Hóc Môn ngày nay), hai là Simon Của, 18 tuổi, người miền Nam Việt Nam, cùng thông ngôn hạng hai Petrus Nguyễn Văn Sang, và người hầu Pedro Trần Quang Diệu. Đây là 4 trong 9 người trong phái bộ Pháp của “Cochinchine” [Nam Kỳ] sang Paris cùng lúc nhưngkhông thuộc Sứ đoàn Phan Thanh Giản. Những người còn lại trong phái bộ Pháp của “Cochinchine” [Nam Kỳ], không có hình trong tập ảnh, là các ông Petrus Trương Vĩnh Ký - thông ngôn hạng nhất, Tôn Thọ Tường - nho sĩ hạng nhất, Phan Văn Hiếu - nho sĩ hạng nhì, và 2 người giúp việc khác dưới sự hướng dẫn của hai sĩ quan Hải quân người Pháp biết nói tiếng Việt là Trung tá Gabriel Aubaret và Trung tá Henri Rieunier.

Chuyến đi sứ sang Pháp bắt đầu ngày 27/06/1863 từ Huế; Sứ đoàn rời Sài Gòn ngày 04/07 bằng tàu Européen đến Suez (Egypt) ngày 17/08 đi xe lửa đến Alexandria và ở lại đến cuối tháng 8 lên tàu Labrador sang Toulon, qua Marseille trước khi đến Paris vào ngày 13/09. Sau gần hai tháng chờ đợi, ngày 5/11 Sứ đoàn Việt Nam được Đại đế Napoleon III tiếp tại điện Tuileries. Sứ đoàn Phan Thanh Giản sau đó ghé Tây Ban Nha (Spain) thương thảo 12 ngày, 10-22/11/1863, với chính phủ tại đây. Trên đường về nước Sứ đoàn đã ghé lại Ý. 18/03/1864 Sứ đoàn về đến Saigon và có mặt tại kinh đô 10 ngày sau đó. Chín tháng công du, Sứ đoàn Phan Thanh Giản không đạt được mục tiêu xin chuộc lại ba tỉnh miền đông Nam kỳ: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường.

Tập ảnh lịch sử của Jacques-Philippe Potteau, tuy không nhiều và vẫn còn khuyết điểm, đã giúp cho người đọc hình dung được một cách chân thực hơn về nhân dạng, ngoại hình và cách phục sức của quan, lính, văn nhân, võ tướng Việt Nam ở cuối thế kỷ thứ 19. Mặt khác, sử liệu này cho thấy những hình ảnh minh họa nhân vật lịch sử Việt Nam vẽ ở thế kỷ 20 hay những cảm nhận về lịch sử có nhiều phần lãng mạn, không đi sát với thực tế như bộ ảnh nhân chủng học đã trưng bày.