Sơ lược nghi thức Cúng bái và Tế lễ của người Việt

Trần Văn Giang

Phong tục là thói quen đã được nhiều người chấp nhận qua một thời gian dài. Phong tục nhiều khi có những nghi thức phức tạp, cầu kỳ, rườm rà, tỉ mỉ không giải thích được lý do tại sao lại “phải” như thế (?) mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi (có lẽ lời giải thích đã không còn thích hợp; hoặc thất truyền, mất đi theo thời gian).

Trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta, dù theo đạo nào cũng vậy, phong tục thờ cúng tổ tiên là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương kính và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy trì; để con cháu ta mới có cơ hội học hỏi và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao.

Thờ cúng là nghi lễ của tôn giáo; cũng là phương thức cúng tế vị “Thần” vô hình tối cao theo quan điểm tôn giáo đó.

Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến nghi thức “Cúng bái và Tế lễ” tức là thể thức dâng đồ lễ lên Tổ tiên ông bà, thần linh của đạo thờ Ông bà và thờ Thần.

1- Nghi thức Cúng bái (gia tiên và gia tộc)

Nói chung, những giới luật cúng bái có chỗ “đại đồng tiểu dị,” qua nhiều thời đại và địa phương, nghi thức cúng bái thay đổi, hoặc đề ra giới luật không giống nhau, có quan điểm khác nhau ít hay nhiều, nhưng tựu trung thì mục đích vẫn thống nhất với nhau.

Có rất nhiều tài liệu khác nhau về cúng kiến, người viết xin ghi chép lại các nghi lễ thường được dùng; đồng thời thỉnh thoảng xin mạo muội góp vài ý kiến, tạm gọi là để “hướng dẫn.” Đọc giả có thể tùy nghi dựa theo đây mà thêm hoặc bớt để hợp với hoàn cảnh của cá nhân mình.

Cúng: Việc cúng thường được tổ chức trong khuôn khổ gia đình hay họ (tộc) và do gia trưởng hay trưởng tộc làm chủ, lo lấy việc hành lễ. Mỗi lần cúng đều có đồ tế lễ.

Cúng khi có giỗ Tết, kỵ nhật, có chuyện thay đổi lớn lao trong gia đình (đi xa, dựng vợ gả chồng, xây dựng nhà cửa, khai trương hàng quán thương mại…)

Tùy theo hoàn cảnh giàu nghèo, cúng có đồ lễ gồm trầu, rượu, hoa quả, vàng mã, hương (nhang), cỗ chay, cỗ mặn… hoặc đôi khi chỉ có hương và nước lạnh…

Sau khi thắp đèn (hoặc nến), đặt đồ lễ lên bàn thờ trên bàn thờ, gia trưởng (hoặc trưởng tộc) khăn áo chỉnh tề, thắp hương cắm lên bình hương và đứng nghiêm trang khấn vái. trước hết để trình bày lý do việc cúng lễ, và kế đó là mời gia tiên hưởng lễ.

Trong nghĩa bình thường, cúng là thắp nhang (hương), khấn, lạy, và vái.

Khấn: Ăn có mời, làm có khiến… Đối với việc cúng lễ cũng vậy.

Đồ cúng lễ dù có thịnh soạn, trang trong nếu con cháu chỉ đặt lên bàn thờ, không mời thì tổ tiên ông bà ắt không phối hưởng. Bởi vậy trong buổi cúng, con cháu phải khấn. Người Việt vốn trọng nghi lễ, cho nên mỗi dịp cúng vái đều có văn khấn riêng.

Khấn là lời cầu khẩn lâm râm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên quan đến các chi tiết về ngày tháng năm, nơi chốn, mục đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa.

Trước khi khấn, gia trưởng vái ba vái; sau khi khấn xong, gia trưởng lễ (lạy) 4 lễ và vái thêm 3 vái – ta gọi là 4 lễ rưỡi (xem thêm chi tiết về “vái và Lạy” phần sau).

Trong lời khấn, gia trưởng sẽ nói rõ ngày, tháng, năm và lý do làm lễ (và cả các điều xin, nếu có). Phải mời các cụ kỵ từ ngũ đại trở xuống, cùng với chú bác anh chị em vừa mới khuất.

Trước đây lời khấn thường do “thầy cúng” làm và dùng chữ Nho. Nhưng ngày nay việc dùng chữ Nho cho văn khấn rất hiếm. Dân gian thích dùng chữ Việt hơn, vì chữ Việt dễ viết và đọc, mạch lạc không bị hiểu lầm…

Ngoài ra, theo nghi lễ cúng cổ truyền, thường không để cho phụ nữ đàn bà phụ trách việc khấn vái (?!) (ngoại trừ gia đình có chồng chết sớm, và các con còn nhỏ).

Lời khấn cần có những chi tiết sau:

  1. Báo trình địa điểm hành lễ, từ nước trở xuống xã thôn.

  2. Nói rõ con cháu, liên hệ gia đình làm lễ cúng với các món cỗ bàn, dâng lên hương hồn ai có tên gì, từ trần ngày tháng năm, chôn ở đâu.

  3. Mời người có tên giỗ về hưởng, chứng giám lòng thành và phù hộ cho con cháu được mọi sự tốt lành.

  4. Cũng mời tất cả các vị tổ, đọc rõ tên, cùng thân thuộc nội ngoại đã quá vãng cùng về hưởng lễ cúng.

Sau đây là một số bài văn khấn mẫu, đọc giả có thể tùy ý sửa chữa để hợp với hoàn cảnh riêng của mình:

Văn khấn gia tiên: Một bài văn khấn tượng trưng bằng chữ Hán (bài này trình bày ở đây chỉ để đọc giả tham khảo them; hoặc đọc cho biết. Nếu thấy không cần thiết thì quý vị cứ bỏ qua phần văn khấn chữ Hán này).

“Duy Việt Nam, “Canh Dần” niên, “thất nguyệt”, “thập nhị” nhật.

Kim thần “Trương Văn Tốt,” sinh quán “Đa Phúc” xã, “Kinh Dương” huyện, “Hải phòng” tỉnh cư ngụ “Tân hòa” xã, “Tân bình” quận, “Gia định” tỉnh.

Cẩn dĩ:

Phù lưu thanh chước, mâm bàn cụ vật, thứ phẩm chi nghi; Cảm chiêu cáo vu.

Nhân nhật chính kỵ cung thỉnh:

Cao tằng tổ khảo “Trương Quý Công,” húy “Tiền Hải , hiệu “Tự Thái” thụy “Phong Tần” lai lam chứng giám.”

Dịch Nôm:

(Cao tằng tổ khảo: kỵ ông – đối với người khấn là bốn đời
Cao tằng tổ tỷ: kỵ bà
Tằng tổ khảo: cụ ông
Tằng Tổ tỷ: cụ bà
Tổ khảo: ông
Tổ khảo: bà
Hiển khảo: Cha
Hiển tỷ: mẹ…

(Tên tục là tên lúc sống vẫn họi, tên hiệu là biệt hiệu, bút hiệu; tên thụy là tên khi chết được đặt cho để cúng)

“Nước Việt Nam, năm Canh Dần, tháng bẩy, ngày mười hai..

Nay tôi là “Trương Văn Tốt,” sinh quán tại xã “Đa Phúc,” huyện “Kinh Dương,” tỉnh “Hải phòng.” Hiện cư ngụ tại xã “Tân hòa,” “quận Tân bình,” tỉnh “Gia định.”

Hương hoa trầu rượu, cỗ bàn mọi vật
Dám xin kể ra
Nhân ngày giỗ chính, xin kính mời:

Hương hồn kỵ là “Trương Quý Công” húy “Tiền Hải” hiệu “Tự Thái” thụy “Phong Tần” về chứng giám.”

Ngày nay dân giam gần như không dùng văn khấn chữ Hán nữa mà chỉ dùng thẳng chữ Việt vì chữ Việt rõ ràng và dễ dùng, không bị nhầm lẫn chữ nghĩa…

Một bài Văn khấn tiêu biểu bằng chữ quốc ngữ:

“Kính lạy Tổ tiên Ông Bà,

Cây có cội, nước có nguồn; người phải có tổ tiên, ông bà, cha me. Hương lửa lưu truyền, có thân lớn khôn đây là nhờ ơn Cửu Huyền ban phước.

Hôm nay là ngày… tháng… năm… (Âm Lịch), con tên họ là… (xưng họ tên),… tuổi, hiện ở tại… (ấp, xã, huyện, quận, tỉnh thành phố v.v…). Được ngày lành tháng tốt, sắm bày phẩm lễ, kính trình “Tổ tiên, Ông bà, Cha mẹ, Chú bác Nội ngọai …” nhận lễ chứng minh, cho phép con được (đào móng, dựng nhà, lấy vợ / gả chồng cho con v.v…).

Kính xin Ông Bà Tổ Tiên… phù hộ độ trì cho công việc… (Nếu là đào móng, xây, dựng nhà, thì vái cho được tiến triển tốt đẹp, an toàn khi làm việc, chủ thợ đều bình an, nhanh chóng thuận lợi, vui vẻ mọi bề …Nếu về nhà mới thì vái cho toàn gia được bình an mạnh khỏe, đời sống được ấm no, sung túc, trên thuận dưới hòa… Nếu là khai trương thì vái được thuận lợi, mua may bán đắt, chủ khách vui vầy, tiền bạc bốn phương tụ về, xuân hạ thu đông đều phát đạt… Nếu là dựng vợ gả chồng thì xin độ rì trăm năm hạnh phúc…

Xin kính trình.”

Hoặc:

“Ngày… tháng… năm…

con là kế tự tên…

có việc…

xin đem lễ bạc,
đãi chút long thành,
nén hương đèn rượu,
đĩa muối bát canh,
trước bàn thờ khấn vái,
xin thấu tâm linh,
phù hộ cho con cháu,
mọi sự yên lành.

Cẩn cáo

Cũng kính mời Thổ công Táo quân đồng lai cách cảm.”

Vái (“bái”) và Lạy: Vái lạy là phép xã giao có sẵn từ thời xưa, không chỉ dùng khi cúng tế mà người sống cũng lạy nhau.

Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính cẩn. Người ta thường nói chung hai việc thành một: “khấn vái” là vậy.

Vái lại thường đi đôi với lạy. Số lần lạy và vái có một ý nghĩa riêng rất đặc biệt. Số lần vái và lạy (sẽ nói thêm ở phần sau) là một đặc trưng phong tục Việt Nam bởi vì ngưới Tầu không có tục lệ vái lạy giống như người Việt – Họ chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái sau khi cúng mà thôi.

Vái: Vái được áp dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này.

Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường hợp, người ta vái 2, 3, 4, hay 5 vái…

Lạy: Lạy là hành động bày tỏ lòng tôn kính chân thành với tất cả tâm hồn và thể xác đối với người trên hay người quá cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà.

Cách đơn giản: Ngày nay, cách lạy cũng đã được giản lược, hoặc vì không hiểu đúng phép người ta hành lễ một cách lấy có với những động tác vô nghĩa. Đã có xu hướng thay thế lạy bằng những cái “xá” (vái); nhất là những người ăn mặc Âu phục. Rồi đây, có thể tục lạy sẽ bị bỏ dần và mất hẳn trong mọi lễ nghi trong gia đình cùng ngay cả ở các đền chùa. Thiết tưởng cũng cần ghi lại một vài nét về tác động của cách lạy với hoài mong lưu lại một chút dấu tích về sau.

Người lạy đứng thẳng, chắp tay lên cao ngang trán, cong mình xuống, đặt hai tay vẫn chắp xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống gần bàn tay đang chắp (đây là thế phủ phục), cất đầu vào mình thẳng lên đồng thời co hai tay vẫn lên chắp trước ngực và co đầu gối bên phải lên, đặt bàn chân phải lên chiếu để sửa soạn đứng dậy, đem hai bàn tay vẫn chắp xuống tì vào đầu gối bên phải mà đứng lên, chân trái đang quỳ tự nhiên theo cử động chót này cùng đứng thẳng lên. Người lạy, trước khi khấn đã lễ bốn lạy, và sau khi khấn từ tư thế quỳ đứng lên, đã qua như lễ được một nửa lạy, cho nên người ta thường nói là lạy “bốn lạy rưỡi” là vậy.

Để trình bày cho chi tiết hơn: Có các thế lạy cho Nam giới và Nữ giới; đồng thời có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý nghĩa khác nhau. Mời đọc.

Thế Lạy Của Đàn Ông: Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quỳ gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quỳ để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quỳ cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy (xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra.

Có thể quỳ bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quỳ chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quỳ chân nào xuống trước thì khi chuẩn bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa học và vững vàng. Sở dĩ phải quỳ chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn bị đứng lên cũng vậy. Sở dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn.

Thế lạy phủ phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất và đồng thời quỳ hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy đã tập luyện hằng ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh thoảng quí cụ mới đi lễ chùa, phải cẩn thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng bằng.

Thế Lạy Của Đàn Bà: Thế lạy của các bà là cách ngồi bệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy.

Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quỳ hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt.

Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển chuyển tha thướt, tượng trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều bất tiện là khi mặc âu phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao niên còn áp dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi.

Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền thống rất có ý nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành khẩn vừa trang nghiêm trong lúc cúng tổ tiên. Nếu muốn giữ phong tục tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh niên phải có lòng tự nguyện. Muốn áp dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập dượt nhiều lần mới nhuần nhuyễn được. Nếu đã muốn thì mọi việc sẽ thành.

Ý Nghĩa của Lạy và Vái

- Ý Nghĩa Của 2 Lạy và 2 Vái: Hai lạy dùng để áp dụng cho người sống như trong trường hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng điếu, nếu là vai dưới của người quá cố như em, con cháu, và những người vào hàng con em v..v.., ta nên lạy 2 lạy.

Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính cẩn, chứ không có ý nghĩa nào khác. Nhưng trong trường hợp người quá cố còn để trong quan tài tại nhà quàn, các người đến phúng điếu, nếu là vai trên của người quá cố như các bậc cao niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v.. v.., của người quá cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan tài đã được hạ huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái.

Theo nguyên lý âm dương, khi chưa chôn, người quá cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng trưng cho âm dương nhị khí hòa hợp trên dương thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy.

- Ý Nghĩa Của 3 Lạy và 3 Vái: Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng trưng cho Phật, Pháp, và Tăng. Phật ở đây là giác, tức là giác ngộ, sáng suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong sạch, thanh tịnh, không bợn nhơ. Đây là nói về nguyên tắc phải theo. Tuy nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy.

Trong trường hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu phục, nếu cảm thấy khó khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật.

- Ý Nghĩa Của 4 Lạy và 4 Vái: Bốn lạy để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần. Bốn lạy tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ tượng (Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú ngụ.

Bốn vái dùng để cúng người quá cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp dụng thế lạy.

- Ý Nghĩa Của 5 Lạy và 5 Vái: Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng trưng cho ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng trưng cho trung cung tức là hành thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý kiến cho rằng 5 lạy tượng trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng Vương, quí vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng Vương là vị vua khai sáng giống nòi Việt.

Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì giờ để mỗi người lạy 5 lạy.

Trong việc cúng lễ tổ tiên ông bà, sự thành kính phải đặt hàng đầu. “Tâm động quỷ thần tri,” trong lòng nghĩ sao thì quỷ thần đều thấy rõ. Việc cúng bái mà thiếu thành kính tức là thiếu sự hiếu thảo. Tổ tiên nào chứng giám cho những con cháu có cúng mà không có kính.

2- Nghi thức Tế lễ

Tế lễ có tính cách tập thể. Tập thể ở đây có thể là quốc gia, làng xã; có thể là một cộng đồng hay một hội đoàn. Như vậy, Tế cũng là cúng nhưng hình thức và nghi thức to lớn hơn cúng (cho gia đình, họ tộc). Tế thường có âm nhạc và có một ban Tế gồm nhiều người, nhiều chức sắc…

Tế lễ có 2 điểm khác với khấn và cúng:

- Tế lễ là cuộc dâng lễ vật một cách long trọng lên những vị Thần lớn như: Trời, Đất, Mùa Màng, Đức Khổng Phu Tử, Hai Bà Trưng, Đức Thánh Trần, Đức Tả quân Lê Văn Duyệt, các vị Thần Thành Hoàng của làng xã…

- Tế lễ còn được tổ chức một cách trọng thể với cờ xí, nhạc lễ và phẩm phục. Phẩm vật tế lễ là vật tam sinh: bò, dê, heo.

Mỗi buổi tế gọi là một diên tế. Thông thường có 2 diên tế: Túc Yết và Đoàn Cả (có khi đọc trại đi là Đàn Cả):

- Túc: Đêm (trực túc: gác đêm); yết: ra mắt. Túc Yết là “Lễ hương chức làng dâng lễ ra mắt các vị Thần trong lúc ‘Kỳ Yên’[1]”. Như thế, chính ra diên tế Túc Yết phải cử hành về đêm hay ít ra là vào buổi chiều. Hiện nay, tại Lăng Ông Bà Chiểu, diên tế Túc Yết được cử hành vào buổi sáng, có lẽ là vì lý do an ninh cũng như để quan khách từ xa có thể tới tham dự được.

- Đoàn: một đám người đông đảo. Cả: lớn, đông. Đoàn Cả là sự tề tựu đông đủ dân làng và khách thiện tín để tế lễ Thần. Đoàn Cả là diên tế chính trong dịp lễ Kỳ Yên tại các đình làng cũng như trong lễ giỗ của các miếu thờ Thần. Học giả Huỳnh Tịnh Của viết: “Chính lễ tế thần, nhằm ngày thứ hai. Phép Kỳ Yên rồi qua ngày sau thì Đoàn Cả.”

Mỗi diên tế Túc Yết hay Đoàn Cả gồm có các nghi thức tuần tự như sau:

Thành phần ban Tế:

- Chủ tế (còn gọi là Tế chủ, hay Chánh tế): Chủ tế chủ trì nghi lễ là người cao niên có phẩm hàm hay đỗ đạt cao nhất làng hoặc là ông tiên chỉ, ông nhất đám của làng… hay một nhân sĩ có uy tín của hội đoàn.

- Bồi tế: Hai (hoặc bốn) người bồi tế giúp chủ tế và cứ trông chủ tế mà lễ sao làm vậy

- Đông xướng, Tây xướng: Hai người Đông xướng và Tây xướng đứng đối diện hai bên hương án xướng (đọc) nghi thức hành lễ. Vai trò này có thể được xem như là một hình thức tương tự như “Em-xi (MC)” – người điều khiển chương trình - của buổi lễ.

- Nội tán: Hai Nội tán đứng hai bên chủ tế hướng dẫn ra vào và trợ xướng. Nhiều trường hợp, để cho đơn giản tiện sổ sách, vai trò hai Đông Xướng và Tây xướng được hai Nội tán kiêm nhiệm luôn thể…

- Chấp sự: Những người chấp sự (vai trò “tà loọc”) đứng hai bên lo việc điếu đóm (dâng hương, dâng rượu, chuyển chúc, đọc chúc …)

- Đồng văn: Người lo việc đánh chiêng trống.

Nghi thức tế trải qua bốn giai đoạn:

  1. Nghênh thần: chủ tế lễ 4 lễ

  2. Hiến lễ: dâng lễ 3 lần, mỗi lần chủ tế và bồi tế đều quỳ để hiến lễ, đọc văn tế (đọc chúc)

  3. Ẩm phúc và thu tộ: Chủ tế nhận lộc thần linh ban

  4. Lễ tạ: Chủ tế lễ 4 lễ.

Cách thức ăn mặc và động tác trong tế từ lâu đã được cung đình hoá.

Vái lạy trong các nghi thức Tế lễ

“… Từ đời xưa, vua đối với bày tôi, bố vợ đối với chàng rể, người tôn trưởng với kẻ ti ấu đều phải lạy đáp lễ... Đến đời nhà Tần mới đặt ra lễ ‘tôn quân ti thần’, nên thiên tử không đáp lạy bày tôi nữa... Từ quan khanh sĩ trở xuống đều theo cổ lễ mà đáp lễ kẻ ti ấu (bề dưới), nếu kẻ ti ấu chối từ, mới dùng lễ túc bái đáp lại. Còn vái là nghi thức lúc đã lễ xong.... Nước ta xưa kia có chốn công đường có lễ tông kiến, kẻ hạ quan, cũng vái bậc trưởng quan. Gần đây những kẻ hiếu sự không biết xét đến cổ điên lại cho là lễ của tôn trưởng đối với kẻ ti ấu, còn kẻ ti ấu đối với tôn trưởng không được vái, chỉ lạy xong là cứ đứng thẳng và lùi ra...”
(Trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ trang 174).

Xem đoạn văn trích dẫn trên ta thấy vái lạy là một phép xã giao, không chỉ vái lạy người trên mà người trên cũng vái lạy đáp lễ. Từ lạy nhau chuyền sang vái nhau trong buổi tương kiến, đến nay ta tiếp thu văn hoá Âu Tây vẫn giữ được phép tôn ti (tôn trưởng ti ấu).

Theo phong tục lễ giáo của ta, bề dưới phải chủ động chào bề trên trước, trẻ chào già trước, trò chào thầy trước. Nếu bề trên không chào lại người dưới, thầy không chào lại trò, tức là không đáp lễ, thì cũng bất lịch sự chẳng khác gì từ chối người khác, làm cho người đưa tay trước ngượng ngùng và bất bình. Không biết vái, chào lại người khác là đã tự làm mất đi phong cách lịch duyệt của chính mình.

Theo Đạo giáo (Lão giáo), chủ trương “tay trái” là “tay tôn kính” vì theo tập quán “Người nước Sở trọng tay trái, mà Lão Tử lại là người nước Sở,” ví thế nên “phía bên trái” được coi trọng.

Khi cúng tế, người ta dùng tay trái để cắm nhang vào lư hương. Khi quỳ lạy, bàn tay phải nắm lại, bàn tay trái bao nắm tay phải, đưa hai tay lên giữa hai lông mày rồi quỳ xá xuống đất. Khi lạy xuống thì quỳ gối phải trước rồi mới tới gối trái. Khi đứng lên thì gối trái co lên trước kế đến gối phải rồi toàn thân đứng lên. Cũng có nơi quỳ hai gối xuống và lên cùng một lúc. Phật giáo khi lạy thì chấp hai bàn tay lại rồi xá xuống, còn Đạo giáo thì nắm bàn tay như trên, hai bên có hình thức khác nhau.

Ngày xưa, người ta lấy hình thức “bốn lần quỳ thực hiện tám lần xá” gọi là “lễ kính tối cao.” Nữ cư sĩ thì lạy có khác với nam cư sĩ, hai gối quỳ một lượt, nắm tay chỉ cần đưa ngang cổ rồi xá xuống một cách nghiêm cẩn là được.

Tư thế thắp hương lễ bái là, tay phải cầm nhang, tay trái bao ngoài tay phải, đưa lên ngang ngực (không cần phải đưa lên tới ngang hai lông mày hoặc lên khỏi đầu). Đầu nhang hơi nghiêng xéo một chút, nếu xá cao cũng không đưa nhang quá hai lông mày, nếu xá thấp thì từ ngực xá xuống, giống như vẽ thành một nửa vòng tròn.

Nếu không cầm nhang thì hai tay nắm lại như trên, đưa lên ngang ngực, đầu cúi xuống thành nửa vòng tròn.

Về mặt phẩm vật cúng tế, Đạo giáo chọn “tứ hỉ ngũ quả,” cúng dường bốn món, sáu món, bảy món hoặc mười món, chứ tuyệt không có chủ trương giết heo mỗ dê để cúng tế.

- Tứ hỉ gồm: Trà, rượu, mì sợi, cơm.

- Bốn món cúng dường là: bông hoa, nước trà, nhang, đèn sáp. Trong đó, nhang tượng trưng cho sự “vô vi,” bông hoa tượng trưng cho “tự nhiên,” nước trà tượng trưng cho “thanh tịnh,” đèn sáp tượng trưng cho sự “thuận hóa: biến hóa theo chiều thuận,” nghĩa là bốn món nêu lên ý niệm cơ bản của Đạo giáo: “thanh tịnh, vô vi, tự nhiên, thuận hóa.”

- Bảy món cúng dường là: nhang, hoa, đèn sáp, nước trà, trái cây, cơm, âm nhạc.

Mười món cúng dường là: nhang, đèn , bông , trái, trà, cơm, rau cải, vàng bạc, châu ngọc, y phục.

Thủ Tục / Diễn tiến Tế Lễ

Diển tiến buổi Tế tương tự như lớp lang của một bản kịch ngắn mà ban Tế cần hiểu biết trước thật rõ ràng; đôi khi phải tập dượt nhiều lần cho suông sẻ, để giữ sự long trọng của buồi tế. Chi tiết diễn tiến thay đổi tùy miền, tùy loại Tế.

Sau đây xin liệt kê thủ tục điễn tiến của một buổi lễ tiêu biểu (của một giòng họ). Thủ tục sẽ được Đông xướng, Tây xướng (hay Nội tán) đọc lớn từng bước, làm từng giai đoạn một – Ngày nay, chỉ nên đọc (hoặc làm) phần chữ Việt trong ngoặc là đủ):

  1. Khởi chinh cổ (Nổi trống chiêng)

  2. Nhạc sinh tựu vị (Ban nhạc vào vị trí)

  3. Củ soát tế vật (Kiểm tra lễ vật cúng)

  4. Chấp sự giả các tư kỳ sự (Những người phụ trách cúng vào vị trí của mình)

  5. Tế chủ dữ chấp sự giả các nghệ quán tẩy sở (Chủ tế và mọi người phụ trách cúng vào chỗ rửa tay)

  6. Quán tẩy (Rửa tay)

  7. Thuế cân (Lau tay)

  8. Bồi tế viên tựu vị (Bồi tế vào vị trí)

  9. Chủ tế viên tại vị (Chủ tế vào vị trí)

  10. Thượng hương (Dâng hương)

  11. Nghinh thần cúc cung bái (Chủ tế và bồi tế lạy sụp cả xuống)

  12. Hưng (Chủ tế và bồi tế đứng dậy)

  13. Bái (Lạy)

  14. Hưng (Đứng dậy)

  15. Bình thân (Đứng ngay thẳng)

  16. Hành sơ hiến lễ (Lễ dâng rượu lần đầu)

  17. Nghệ tửu tôn sở, tư tôn giá cử mịch (Chủ tế đi ra chỗ án để rượu, người chấp sự mở cái miếng phủ trên mâm đài ra)

  18. Chước tửu (Rót rượu)

  19. Nghệ đại vương thần vị tiền (Hai người nội tán dẫn chủ tế lên chiếu nhất)

  20. Quỵ (Tế chủ và bồi tế quỳ cả xuống)

  21. Tiến tửu (một người chấp sự dâng đài rượu đưa cho tế chủ vái một vái rồi giao trả người chấp sự)

  22. Hiến tửu (các người chấp sự dâng rượu đi hai bên, hai tay nâng cao đài rượu đi vào nội điện. Xong trở ra)

  23. Hưng, bình thân, phục vị

  24. Độc chúc (hai người chấp sự vào bàn trong kính cẩn bưng văn tế ra)

  25. Nghệ độc chúc vị (người nội tán dẫn chủ tế lên chiếu trên)

  26. Giai quỵ (tế chủ, bồi tế, hai người bưng chúc đọc chúc đều quỳ cả xuống)

  27. Chuyển chúc (người bưng chúc đưa cho chủ tế. chủ tế cầm lấy, vái một vái rồi đưa cho người đọc chúc)

  28. Độc chúc (người đọc chúc lần này đọc bản văn tế. Đọc xong văn tế, chủ tế lạy hai lạy rồi ra phía ngoài. Sau đó lại xướng lễ trở lại để dâng hai tuần rượu nữa. Tuần thứ hai là Á hiến lễ và tuần thứ ba gọi là Chung hiến lễ)

  29. Ẩm phúc (hai người vào nội điện bưng ra một chén rượu và một khay trầu)

  30. Nghệ ẩm phúc vị (người chủ tế đi ra bước lên chiếu thứ nhì)

  31. Quỵ (tế chủ quỳ xuống. hai người đưa chén rượu, khay trầu cho chủ tế)

  32. Ẩm phúc (chủ tế bưng lấy chén rượu vái, lấy tay áo che mồm uống một hơi hết ngay)

  33. Thụ tộ (chủ tế cầm khay trầu vái rồi ăn một miếng)

  34. Tạ lễ cúc cung bái (chủ tế và bồi tế cùng lạy tạ bốn lạy)

  35. Phần chúc (người đọc chúc đem văn tế đốt đi)

  36. Lễ tất (tế đã xong)

(theo http://kyyeu2010.truongvan.com/"page_id=73)

Trong buổi Tế lễ này có mấy điều chú ý như sau:

- Khi chủ tế di chuyển đổi chỗ trên các chiếu, từ chiếu dưới lên chiếu trên thì phải bước ra khỏi chiếu rồi bước lên về phía bên phải của mình, và khi trở xuống cũng bước ra khỏi chiếu trở về phía bên trái của mình tức là bên phải của bàn thờ.

- Hai người bồi tế ngoài nhiệm vụ phụ giúp chủ tế trong việc hành lễ còn có nhiệm vụ thay thế người chủ tế nếu người này vì bất cứ lý do gì không hành lễ được.

- Khi đốt sớ, mọi người dự tế đều phải đứng quay mặt và ngó vào chỗ đốt sớ.

Văn tế, văn chúc

Bài văn Tế thường do Chủ tế đọc. Nhưng cũng có thể do một người nào đó trong ban Tế đã được chỉ định trước. Ngày xưa, bài Văn Tế thường viết bằng chữ Hán… Tuy nhiên ngày nay dân gian dùng thẳng chữ Quốc ngữ (tương tự như văn khấn của cúng giỗ).

Cụ Dương Quảng Hàm định nghĩa văn tế ‘là một bài văn đọc lúc tế một người chết để kể tính nết công đức của người ấy và tỏ tấm lòng kính trọng và thương tiếc của mình’ (Dương Quảng Hàm. Việt Nam Văn Học Sử Yếu. Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, Sài Gòn, 1968. Tr144). Định nghĩa như thế cho nên Cụ Dương đã chia các đoạn mạch của một bài văn tế ra như sau:

  1. Đoạn mở bài
  2. Đoạn kể công nghiệp, đức tính của người chết
  3. Đoạn than tiếc người chết
  4. Đoạn tỏ tình thương nhớ của người đứng ra làm lễ tế.

Tuy nhiên, bài văn tế có thể có các bố cục hơi khác một chút tùy một loại Tế.

Bài Văn tế tiêu biểu

(bài văn tế này đọc ở Lăng Ông Bà Chiểu và ở các đình làng Miền Nam)

Lược dịch phần “Lòng linh” (phần chính, không kể phần mở đầu) của bản Văn Tế Túc yết:

Thưa rằng:

Kính cẩn thưa Đức Thượng Công là sao sáng của song núi, do khí linh thiêng của song biển đúc thành. Chức giữ ba quân, đánh Bắc, dẹp Đông. Công mở nước thật không phải nhỏ. Quyền hạn đảm đương muôn dặm, miền Đông yên, vùng Tây lặng. Sức giữ yên đất nước, khó có ai tiến tăm bằng. Lúc sống thì làm tướng, khi chết trở nên Thần sáng rực rỡ vang lừng mà tiếng hiển hách chói lọi cao. Lúc vua nguy khốn thì phò, khi nướv yếu thì trợ. Hiếm có thay lúc Ngài sống đã tranh đấu cho sự vinh dự. Giúp đỡ dân mà hiển hách. Rất đẹp mà linh thiêng.

Thưa rằng, nhân lúc trời mùa Thu, cử hành lễ Túc Yết cung kính. Làm lễ vào buổi sáng sớm. Xin cáo với bậc Thần minh cảm nhận cho. Khấn nguyện bằng lễ này mong Ngài độ trì phù hộ. Vòi vọi ở trên đó, ngửa trông ban điềm lành, ban phước. Cao cả nơi linh thiêng, tất cả bằng Thần lực, không có điều xấu, không có thanh âm. Cúi lậy Đức Thượng Công ban cho thêm ân huệ.

Nay cúi lậy kính cẩn mà thưa vậy.

Lược dịch phần “Lòng linh” của bản Văn Tế Đoàn Cả (phần mở đầu tương tự nhu bà văn tế Túc yết):

Thưa rằng:

Kính cẩn thưa Đức Thượng Công, là bậc mở nước có công đầu, ít có ai trong triều đình lại giúp vua lớn như thế.

Làm hưng thịnh lên, phụ tá rực rỡ, quét sạch bọn tàn bạo, Làm bậc hổ tướng với quyền tước đương thời, dẹp yên bọn Chân Lạp, Xiêm La gian tham.

Tướng tài ít có hai, tài thao lược giúp được nhiều công lắm. Quốc sĩ vô song, trí dũng đáng tôn xưng là lớn cả.

Trải hơn 10 năm, dẹp yên quân cường khấu, tiếng thơm lừng lẫy chốn quân triều.

Mấy chục năm trời, đứng đầu nơi phiên trấn, oai dũng vang xa đều biết tới.

Hết lòng nuôi dân, mến kẻ sĩ, phong cách bậc nhân được nhớ lâu bền ở lòng người.

Để ý giúp đời trị nước, thành tích chánh đáng mãi còn trong sử chép.

Kính trọng lập đàn mà bái vọng, nghiễm nhiên lẫm liệt oai hùng,

Tôn sùng miếu vũ mà nhớ công cao cả dương dương chính khí.

Trộm nghĩ rằng:

Hội đã trải qua nhiều nỗi gian khổ mà giữ sự thờ cúng bằng cách chỉnh tu Lăng Miếu cho lâu dài,
Gặp nhau mà bàn tán thu góp tiền bạc tu bổ hầu trang trải các kinh phí xây cất.
Hết lòng truy tìm vết tích cũ để hoài niệm và tưởng nhớ khôn nguôi đến Đức Thượng Công.
Lòng xúc cảm mà ngưỡng mộ không dứt.

Nghĩ rằng:

Nhân lúc tiết trời mùa Thu, nhớ lệ cũ mà ca diễn, kính cẩn làm lễ dâng cỗ bàn thanh khiết, mong chứng giám cho sự thờ kính này.

Kính dùng nhang đèn, mong Ngài hiểu cho lễ đơn giản yên lặng,
Ngửa trông Ngài ban đến mọi nhà trong thôn làng đều được phong hanh.
Nhận hưởng ở lòng thành, lũ bản Hội những mong ơn tốt đẹp.

Nay kính cẩn mà thưa vậy.

(Hai đọan Long linh ở trên được ghi chép lại / trích từ bản Văn tế theo diễn tiến của lễ Kỳ yên[1] Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt)

3- Lễ Hội Anh Hùng

Lễ Hội Hùng Vương (Hội Đền Hùng): Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.

Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng - nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn,” biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.

Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng (xã Hy Cương - Lâm Thao - Phú Thọ). Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam.

Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba:

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba

Ngày này cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng. Tổ tiên người Việt luôn muốn nhắc nhở con cháu: ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ của mình, giữ đúng kỷ cương vua-cha-con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển.

Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống thiêng của dân tộc, gởi gắm trong biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng.

Những năm hội chính thì phần lễ gồm: Tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng.

Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ... và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát ghẹo - hai âm điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu Phong.

Lễ Hội Hai Bà Trưng (Hội Đền Hạ Lôi): Hàng năm, từ ngày 3 tới ngày 6 tháng 2 âm lịch tại đền Đồng Nhân (quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) diễn ra lễ hội tưởng nhớ công lao của hai Bà Trưng - là những nữ anh hùng đã có công đánh giặc Đông Hán giành quyền tự chủ cho đất nước và làm rạng ngời trang sử vẻ vang của dân tộc.

Sau ba năm kiên cường chống quân xâm lược phương Bắc (40-43), cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thất bại, nhưng đã để lại cho dân tộc ta tấm gương trung trinh của nhị vị nữ anh hùng, làm rạng ngời ý chí và bản lĩnh của phụ nữ Việt Nam. Tưởng nhớ sự nghiệp vẻ vang của Hai Bà cùng các tướng lĩnh, nhân dân đã lập đền thờ ở nhiều nơi. Nhưng nổi tiếng hơn cả, phải kể đến ba ngôi đền: đền Hát Môn (Hà Tây), đền Hạ Lôi (Vĩnh Phúc) và đền Đồng Nhân (Hà Nội).

Đền Đồng Nhân được khởi dựng vào năm 1142 đời Lý Anh Tông, sau sự kiện huyền kỳ về pho tượng Hai Bà bằng đá trôi theo dòng sông Hồng dạt vào bờ và toả sáng bãi Đồng Nhân đêm 6 tháng 2. Từ đó thành lệ cứ vào dịp này hằng năm dân làng tổ chức lễ hội. Đến năm 1819, bãi sông lở, đền chuyển về Sở Võ (giảng võ đường thời Lê) tại thôn Hương Viên, nay là phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội.

Hội đền Đồng Nhân kéo dài trong bốn ngày từ 3 đến 6 tháng Hai. Lễ hội bắt đầu bằng lễ mở cửa đền ngày mồng 3. Sáng ngày mồng 4 dân làng đã bắt đầu tế (là lễ nhập tịch). Đến ngày mồng 5 là ngày chính hội. Trong ngày này có lễ tắm tượng, tế nữ quan và tổ chức múa đèn, ngày mồng 6 tế lễ chay. Theo tục cũ mọi việc dâng cúng trong hậu cung đều do các lão bà thực hiện.

Sau tế lễ, đến múa đèn. Nhóm người múa đèn gồm từ 10 đến 12 cô gái độ tuổi thanh xuân đẹp đẽ và tầm vóc như nhau đã được tập luyện chu đáo. Tất cả các nữ vũ công này đều mặc áo dài đen, quần hồng, thắt lưng đỏ, đầu chít khăn lụa màu. Mỗi người cầm trên hai tay hai đèn làm bằng đài gỗ, dán giấy màu xung quanh và thắp nến cháy sáng ở giữa. Nhóm người này sắp thành hàng trước hương án và múa uyển chuyển, lúc lên lúc xuống, lúc đan xen, lúc tách hàng theo tiếng trống cơm bập bùng nhịp nhàng của hai cô gái đánh bồng (do nam giới cải trang) làm nhịp cho điệu múa.

Ngày mồng 6 hội rã đám, có lễ dâng hương và đóng cửa đền.

Tương truyền, trước khi tuẫn tiết, hai bà đã ăn một đĩa bánh trôi, vì thế tục dâng cúng bánh trôi trở thành một nét độc đáo trong lễ hội hai bà của người dân xã Hát Môn.

Lễ Hội Đức Trần Hưng Đạo (Hội Đền Kiếp Bạc): Đền Kiếp Bạc nguyên là ngôi đền của quốc gia, do triều đình nhà Trần xây dựng tại phủ đệ Trần Hưng Đạo, thuộc địa phận hai xã Vạn Yên và Dược Sơn. Vạn Yên có tên nôm là Kiếp, Dược Sơn có tên nôm là Bạc, vì thế mà dân gian gọi là đền “Kiếp - Bạc,” nhưng tên tự của đền là Trần Hưng Đạo Vương tự.

Vạn Yên từ thời Lê đến thời Nguyễn thuộc tổng Trạm Điền, huyện Phượng Nhãn (Phượng Sơn) phủ Lạng Giang, xứ rồi trấn Kinh Bắc. Dược Sơn thuộc tổng Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn, đến đầu thể kỷ 18, cắt chuyển về trấn Hải Dương. Còn Vạn Yên đến năm 1899, mới chuyển về Hải Dương, nhưng lễ hội vẫn thuộc hai làng cùng tổ chức.

Căn cứ vào vị trí chiến lược của Kiếp Bạc trong sự nghiệp giữ nước, sau cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Hưng Đạo đã lập phủ đệ ở Kiếp Bạc, đồng thời cũng là nơi ông được phong điền kiến ấp và sống ở đây cho tới khi qua đời

Kiếp Bạc còn là nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược năm 1285, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai, một trung tâm sản xuất đồ gốm ở thế kỷ 13-14, một cảnh quan đẹp mặc dầu nay đã phôi pha. Chính vì thế mà nơi đây đã in dấu chân danh nhân nhiều thời đại.

Lễ hội xưa bắt đầu từ 16 đến 20 tháng 8 âm lịch hằng năm. Ngày nay đã khác, hội bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn, tuy nhiên trọng hội vẫn là ngày 18 tháng 8 (ÂL). Khách không chỉ đến Kiếp Bạc vào ngày hội mà quanh năm suốt tháng với số lượng ngày càng đông. Đền Kiếp Bạc còn ngày lễ trọng thứ hai vào 28 tháng 9, ngày mất của Thiên Thành công chúa - Phu nhân của Đại vương, nhưng ngày này không thành hội, chỉ có hai làng sở tại tổ chức tế lễ cùng vài đoàn khách xa.

Lễ vật khai hội: Làng Vạn sắm 8 mâm, mỗi mâm một lợn sống khoảng 70-80 kg, đại diện cho 8 giáp. Dược Sơn sắm 4 mâm tương tự, đại diện cho 4 giáp.

Về bánh trái có: Bánh trong, bánh bột lọc, bánh chằng gừng, bánh rán, bánh phu thê, xôi mầu và mâm ngũ quả.

Trên đây là lễ vật của hai xã sở tại theo lệ, còn lễ vật của khách thập phương, quan lại các cấp thì có thể nói, cuộc sống đương đại có gì quý báu thì trên mâm lễ có thứ đó. Riêng dân chài lưới ở vùng duyên hải về hội, thường có lợn quay hay lợn sống để cả con, tế lễ xong mang xuống thuyền làm cỗ, ăn dần trong những ngày hội

Lễ hội Đống Đa (Gò Đống Đa – Hà Nội)

Đống Đa xưa bãi chiến trường
Ngổn ngang xác giặc vùi xương thành gò
Mùng 5 tết trận thắng to
Gió reo còn vẳng tiếng hò ba quân
Noi gương chiến đấu anh hùng
Quang Trung sống mãi trong lòng chúng ta.

Gò Đống Đa là một gò nằm bên đường phố Tây Sơn, phường Quang Trung, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Tại đây năm 1789 quân Tây Sơn đã đại phá và đánh thắng quân nhà Thanh trong Trận Ngọc Hồi - Đống Đa.

Tại đây, hàng năm cứ vào ngày mồng 5 Tết nhân dân thường tổ chức Lễ hội Đống Đa, lễ hội chiến thắng, để mừng chiến công lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, do hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ để ôn lại những sự kiện lịch sử đã diễn ra tại nơi đây.

Đặc biệt có tục rước “rồng lửa” đã thành lễ hội truyền thống của người Hà Nội. Sau đám rước rồng lửa là lễ dâng hương, lễ đọc văn, cuộc tế diễn ra ở đình Khương Thượng, lễ cầu siêu ở chùa Đồng Quang.

Hội còn có nhiều trò vui, đua tài, đua trí trên sân bãi tại gò Đống Đa lịch sử.

Tóm lại, ở hải ngoại, cộng đồng người Việt cũng đã cố gắng tổ chức các buổi tế lễ tưởng niệm anh hùng dân tộc như ngày Giỗ Tổ Hùng Vương của Hội Hùng sử Việt, ngày kỷ niệm chiến thắng Đống Đa của Hội Tây Sơn Bình Định, nhày Giỗ Hai Bà Trưng của Hội cựu học sinh Trưng Vương Sài gòn … nhằm tiếp tục duy trì truyền thống lễ hội lịch sử Việt Nam.

Chúng ta nên làm gì để có thể duy trì tế lễ cổ truyền tại Hải Ngoại mà không làm nản chí người dự lễ (nhất là giới trẻ)”

Giới trẻ với tính năng động cao nhưng trinh độ / khả năng Việt ngữ giới hạn… Các lễ hội dân tộc cần có diễn tiến ngắn, đơn giản, dễ hiểu và linh động… Giới trẻ sẽ không có kiên nhẫn ngồi lâu để nghe một bài chúc chữ Hán dài lê thê chẳng hiểu ất giáp gì; và các diễn tiến thụ động, trùng lập rất mất thời giờ và chán ngán…

Các buổi Lễ hội sẽ tổ chức phần Lễ thật cô đọng (ngắn gọn), súc tích (có ý nghĩa thực tế) để giới trẻ dễ nhớ, dễ hiểu ngay ý nghĩa của ngày Lễ và sự quan trọng của vấn đề cần phải duy trì truyền thống (hay và bản sắc) dân tộc, nguồn gốc; Còn lại, chương trinh nên đặt trọng tâm vào phần hội (các trò chơi, các cuộc thi đua tài nghệ, thể thao, chương trinh ca nhạc kịch… nhắc nhở ca ngợi ý nghĩa, đặc thù của ngày Lễ).

________

Ghi chú:

[1] Tế Kỳ yên, Tế kỳ phúc, là gì?

- Theo Phan Kế Bính, ờ miền Nam, các lễ hội lớn gọi là Kỳ Yên; và .ở đồng bằng sông Hồng, Bắc phần, cũng theo Phan Kế Bính ghi lại, hàng năm làng tổ chứcTtế Kỳ phúc (cầu an, cầu phước), từ 10 tháng 2 đến 15 tháng 2 với nghi thức và nội dung giống hệt như Kỳ Yên ở miền Nam - Lễ tháng 2 là Tế Kỳ Phúc còn gọi là “Xuân tế.”

- Sách “Gia Định thành thông chí” (mục Phong tục chí) của Trịnh Hoài Đức có đoạn giới thiệu lễ Kỳ yên ở miền nam xưa như sau:

Cúng Kỳ yên: mỗi làng (ở mền Nam) có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về...

Hiện nay, lễ Kỳ yên cũng được tổ chức trong ba ngày, gồm nhiều lễ tế khá phức tạp nhưng cũng khá bài bản, trong đó có ba lễ chính là: Túc yết, Đàn cả (quan trọng nhất) và Lễ tế Tiền hiền, Hậu hiền. Tuy mỗi nơi có thể khác về giờ giấc, thứ tự & chi tiết, nhưng thường thì các lễ được tiến hành đại để như sau:

Ở lễ Kỳ yên, phần “lễ” chiếm phần quan trọng hơn phần “hội.” Các đối tượng cúng lễ là một tập hợp thần linh đông đảo không chỉ riêng có thần Thành hoàng Bổn cảnh. Lễ này là dịp để dân làng họp mặt, bàn chuyện, vui chơi. Những tục lệ này nhằm thắt chặt tình cộng đồng. Còn hát xướng trong ngày lễ Kỳ yên không phải là văn nghệ bình thường mà mang nội dung nghi lễ. Chương trình văn nghệ phải có nội dung đạo lý, kết thúc có hậu. Đặc biệt tiệc tùng trong ngày lễ Kỳ yên ở đình làngmiền Nam chỉ mang tính liên hoan, chiêu đãi, hoàn toàn không có tục “chiếu trên, chiếu dưới,” nhậu nhẹt say sưa như những nơi khác.

Lễ Kỳ yên thu hút đông đảo nhân dân quanh vùng qui tụ về với lễ vật trên tay, người nào cũng trang phục chỉnh tề, quỳ lạy trước bàn thờ và cầu nguyện thần linh sao cho mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an, mùa màng thuận lợi, sản xuất phát triển, nhân dân ấm no. Như thế, lễ Kỳ yên mang hai ý nghĩa: vừa tưởng nhớ một vị có công khai phá miền Nam, vừa cầu mong một cuộc sống no đủ. Cho nên, đây là một sinh hoạt văn hoá dân gian đáng được bảo tồn, duy trì và tạo điều kiện phát triển.

________

Tài liệu tham khảo:

- “Việt Nam Phong tục” của Phan Kế Bính (nxb Miền Nam)

- “Một số Phong tục nghi lễ dân gian truyền thống Việt Nam” của Quang Tuệ (nxb Thanh Hóa, 2009)

- “Hội làng dáng nét Việt Nam” của Lý Khắc Chung (nxb Văn hóa dân tộc, 2001)

- “Nếp cũ – Hội hè đình đám” – 2 quyển Thượng và Hạ của Toan Ánh (nxb Nam Chi Tùng Thư, 1969)

- Và một số rất nhiều tài liệu rời tra tìm từ “Internet” (không liệt kê trong danh sách tài liệu tham khảo).