Văn Học Miền Nam 1954-1975 của Nguyễn Vy Khanh: Động cơ thực hiện công trình và ý thức hạn chế
Sách của tác giả Nguyễn Vy Khanh.

Thoángđọc những trang đầu dẫn khởi vào sách,cũng gần như Mục Lục (chưa ghi trang củatừng chương đoạn), ta đã có cảm tưởngnội dung sách rất phong phú, gần như bao gồm gầnhết những vấn đề cần biết vềVăn Học Miền Nam 1954-1975. Vào thời kỳ mà độcgiả thường tìm đọc sách trên internet, trên E.booksvà tuổi trẻ hải ngoại phần lớn theo hướnghọc hỏi kỹ thuật hoặc kinh tế; vào thờikỳ mà những người lớn tuổi tại hảingoại dần dần thưa thớt chỉ còn một ítngười lưu tâm về văn học và biết ít nhiềuvăn chương thời kỳ 1954-1975; vào thời kỳmà 40 năm qua các thế hệ trẻ trong nướcđa số không biết gì có sự hiện diện củanền văn học đó ở quá khứ; thì cuốn sáchđồ sộ hơn 1530 trang của Nguyễn Vy Khanh đượccho ra đời quả là một công lao biết trướcsự trống vắng trước mắt. Vậy mà tác giảcứ tiến hành việc xuất bản, còn thêm hạn hẹpvề phổ biến hoặc quảng cáo do quen biết hayở nơi có đông người Việt cư ngụ, vìtác giả hiện ở Canada; chỉ in và bán sách qua hệ-thốngAmazon. Những trang đầu sớm hé lộ cho ta biếtrõ động cơ thúc đẩy tác giả quyết chí thựchiên, và khiến ta nghĩ nên cố gắng đọc hếtcuốn sách. Nói vậy, nhưng người viết bài nàychỉ mới đọc kỹ và đọc hết cuốnsách đầu gồm 760 trang (cuốn thứ hai 768 trang).Vì thời gian giới hạn phải thực hiện việckhác và vì trong cuốn đầu tác giả cũng đã hé lộcho ta biết cuốn thứ hai sẽ chứa đựngnhững riêng phần mỗi tác giả mà Nguyễn Vy Khanhđã từng là độc giả và văn chương củahọ đã “ở lại” như thế nào trong tâm hồncủa Nguyễn Vy Khanh. Có những tác giả nổi tiếngtrong Văn Học Miền Nam 1954-1975 mà chưa thấy hiệndiện trong phần “Quyển Hạ: Tác Giả”, nếu tađọc kỹ thì các tác giả tưởng như quênlãng ấy thực sự đã được đề cậpđến trong “Quyển Thượng: Tổng Quan”,nghĩa là nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh không bỏ sót, màvì theo lời Dẫn Nhập đã nói rõ công trình đồsộ này vẫn chưa xong trọn vẹn: “Bắt đầu từ năm1995, chúng tôi đã dự định sẽ viết tổngquan về từng tác giả thuộc Văn học MiềnNam thời 1954-1975; nay hơn 20 năm sau, chúng tôi chỉ mớiviết về một phần nhỏ các tác giả này,nhưng quyết định xuất bản công trình này vìnhiều lý do, xem như đánh dấu chấm dứt cho mộtcông việc, một đoạn đời.” (trang 16).Như vậy, ta đã hiểu Tổng Quan trong QuyểnThượng là tổng quan cho một nền văn họcquá khứ, còn Tổng Quan cho từng tác giả thì ở QuyểnHai (còn dở dang mà cũng đã đạt tới 768trang).

Vậythì ta nên liệt kê ngay những động cơ nào đãkhiến nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh đã dầy côngbiên soạn cuốn sách, như đã nói trên, dù biếttrước công trình của mình sẽ đượcđón nhận không mấy cân bằng với công sức bỏra thực hiện. Tạm kể như khám phá nhưng thựcra những hé lộ soạn giả đã sớm báo hiệucho ta nhận ra: - Động cơ lòng Yêu Thích VănChương Đã Ở Lại Với Tác Giả Khi Còn HọcBậc Trung Học – Động cơ sẵn vốn kiếnthức Triết Học Tây Phương khiến tác giảđào sâu triết học một thời gây ảnh hưởngvào Văn học Miền Nam – Động cơ liệt kê sắpxếp sao cho trọn vẹn do quen với nghề nghiệpchuyên viên thư viện – và cuối bài xin bàn về ý thứccó sự hạn chế cho công trình của mình… Ở độngcơ thứ hai, người viết bài này nhận địnhtác giả có xu hướng nghiêng về Triết Học TâyPhương, nhận định như vậy có phầnnào căn cứ vào thành quả một thời theo họctrước năm 1975 của soạn giả: Cử NhânGiáo Khoa Triết Học (1973) và Cao Học Triết Tây ởĐại học Văn Khoa Sài Gòn. Đọc thấy ngay ởtrang 18, tác giả phân chia các Giai Đoạn Văn HọcMiền Nam trước 1975 thành 2 phần bao quát: 1954-1963 và1964-1975. Bao quát như vậy là do tác giả căn cứvào hai biến cố lịch sử: Hiệp ĐịnhGenève cấu tạo thành nước Việt Nam Cộng Hòatừ vỹ tuyến 17 đến Mũi Cà Mau nằmdưới chế độ Ngô Đình Diệm. chỉ cóvài tháng đầu còn ở dưới ảnh hưởngPháp quốc; và chế độ gọi là Đệ NhịCộng Hòa với cuộc chiến tranh lớn có Mỹtham dự trực tiếp, chỉ hai năm sau cùng thì Mỹmới phủi tay ràng buộc. Tính chất của hai phầnnày (theo tác giả) cũng bao quát hai điều dễ nhậnra do hệ tư tưởng có những nét chi phối trongxã hội Miền Nam 1954-1975: “thờigian từ đầu năm 1954 là con người Thần-tính,chuyển sang con người Hiện-sinh; và kế đó làcon người Dấn-Thân” (trang 590). Ba tính chất nàykhông song hành theo biến cố lịch sử như hai phânchia giai đoạn kể trên mà vận hành theo ba ảnhhưởng lớn: Triết Lý Nhân Vị phát huy dướichính thể Ngô Đình Diệm; và thứ hai là ảnh hưởngTriết học Hiện sinh do các giáo sư du học ởTây phương trở về giảng dạy trong cáctrường Đại Học, song hành với lối sốngbuông thả không thấy tương lai thời chiếntranh chẳng biết bao giờ mới chấm dứt; vàthứ ba là là Con Người Dấn Thân cũng do mộtvài Giáo sư Đại học gây tác động; một phầnnào do có những người Dấn Thân cho bên này hoặcbên kia từ sau biến cố Tết Mậu Thân năm1968. Phân chia tính chất con người như vậy thìtheo thiển nghĩ tác giả Nguyễn Vy Khanh có tầmnhìn theo hướng hệ-trọng-hóa Triết Học Tâyphương, thấy ở đâu cũng có ảnh hưởngcủa nguồn Triết học Hiện sinh. Con ngườiHiện sinh cũng từ nguốn đó; Con người DấnThân cũng từ nguồn đó. Theo thiển nghĩ, nguồnảnh hưởng đời sống người ViệtNam; về mặt tiêu cực do thời thế chiếntranh không lối thoát, do xã hội dần dần chuyểnhóa theo hướng tiến bộ kỹ thuật và tiêu thụ;do khía cạnh xấu của kiến thức. Còn về mặttích cực thì do khía cạnh tốt của kiến thức,bao gồm đan xen nhiều hệ tư tưởng đạođức và tôn giáo đã sẵn có hoặc mới phổbiến sau năm 1954. Liên hệ đến các Giai đoạnVăn học và sự hình thành con người văn hóa giớihạn từ 1954 đến 1975 là điều còn phảibàn sâu bàn rộng.

1/ Động Cơ YêuVăn Chương Ở Lại Mãi Từ Khi Vào Trung Học:Ngaykhi vào sách, nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh đã bộc lộđộng cơ tiềm tàng suốt cả một đời,chính sự âm ỉ ấy khiến ông gắn bó viếtđược cuốn sách đồ sộ này, không phảiviết một lúc mà lần hồi quy tụ các bài viếtrải rác, đã đăng trên báo, đã từng hiệndiện một số đoạn trong các cuốn sách xuấtbản trước đây của ông. Dù quy tụ qua thờigian, nhưng tài liệu phong phú, nhận định vớiquan điểm khách quan có khi chủ quan theo hướng tâmhồn thưởng ngoạn những điều gì hayđẹp của văn chương. “Nghiên-cứu, Sưu-tầm,Nhận-định” này… đáng được kểnhư một công trình đồ sộ văn học, cho dùchưa chắc được chấp nhận với cảtrong nước và ngoài nước. Sẽ xin nói sau trong phầnÝ hướng Thống Nhất Nhân Tâm Về Văn Họcvà Ý thức Hạn chế. Trở lại độngcơ khởi đầu làm nhà biên khảo một đờigắn bó với văn chương, tác giả đã giảibày ở những trang đầu khi vào sách nơi trang 13 và14: “…Văn học Miền Namcũng như nắng ấm miền Nam, đã đếnvà ở lại với chúng tôi, từ những năm đầutrung học… cái còn lại cuối cùng vẫn chỉ làvăn chương”. Xác định như vậy đãcho biết Nguyễn Vy Khanh ở thế hệ tuổi rấtnhỏ lúc di-cư vào Nam năm 1954 (ông sinh năm 1951), chỉmới 3 tuổi, nhưng khi vào các lớp trung học tiếpthu văn chương chữ nghĩa thì ở vào thờithế đầy biến động về chiến tranh;đầy tác động về ý thức hệ. Có thểdo ảnh hưởng từ cha mẹ thuộc thành phầntrí thức, trong nhà có nhiều sách báo văn chương xuấtbản ở Sài Gòn, ông sớm tiếp thu thêm nhiều hiểubiết về văn học, song hành với những tiếpthu từ nhà trường mà đa số giáo sư vănchương cũng từ miền Bắc di cư vào Namnăm 1954. Chắc ông có đọc qua báo Đời Mới,báo Nhân Loại và báo Thẩm Mỹ, ba tờ báo nhiềutính văn học hơn hết hiện diện giữa thậpniên 1950, nhưng lưu dấu sự hiện diện đếnđầu thập niên 1960, nhờ vậy thế hệNguyễn Vy Khanh có dịp tiếp xúc, nhất là đốivới thơ. Có ai nhắc lại thì ông nhớ ra mình từngbiết các báo ấy. Chẳng hạn như ông đã có nhắcđến nhà thơ Hồ Hán Sơn từng có những bàithơ hay đăng trên báo Đời Mới, hoặc nhàthơ Vân Long cũng từng hiện diện trên tờ tuầnbáo này, hoặc biết được một số chi tiếtvề nhân sự của báo Nhân Loại (ở trang 50 và 132) màít ai biết đến. Dĩ nhiên càng về sau, khi ởtuổi thanh niên rồi trưởng thành rồi già dặnthì văn chương ở lại trong tâm hồn ông càngnhiều nhớ tưởng, càng nhiều chi tiết, càngrõ nét về khuynh hướng yêu văn học miền Namđa dạng và phức tạp chen lẫn những vậnđộng ý-thức- hệ. Có phải ý-thức-hệ củanhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh thì khá rõ ràng thiên vềVăn hóa Tây phương (sẽ nói đến ở phần“Động Cơ Do Kiến Thức Triết Học TâyPhương Đưa Vào Biên Khảo” của Nguyễn VyKhanh). Cái còn ở lại với Nguyễn Vy Khanh là vănchương, nhất là thi ca. Do đó, ông trích dẫn rấtnhiều câu thơ hay trong phần thơ chiến tranh (ôngphân biệt ra ba tiểu-đoạn: “thơ chiếntranh-thơ binh lửa-thơ phản chiến”. Ta nhận rachỉ có một chút khác biệt: thơ chiến tranh có ýnghĩa như chiến tranh là một tai ương cho nhânloại; thơ binh lửa dường như thơ củanhững quân nhân có tham dự vào cuộc chiến nhưThanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Phạm Ngọc Lư, Cao HoànhNhân…; và thơ phản chiến dường như là thơcủa những người ngoài cuộc mà suy tư vềchiến tranh”. Theo thiển nghĩ, phân biệt như vậycó sự giống nhau giữa thơ chiến tranh và thơphản chiến; trong khi những người tham dự trựctiếp thì phần trích dẫn thiếu thơ của TrầnHoài Thư (quân nhân thuộc đội thám báo của sưđoàn trách nhiệm các tỉnh từ tỉnh Bình Địnhđến tỉnh Quảng Ngãi trước năm 1975); hoặcthơ của Lâm Hảo Dũng (quân nhân thuộc binh chủngpháo binh trấn đóng ở vùng ba biên giới). Tuy nhiêntrong Quyển Hạ thì có những nhận định hainhà thơ này.Có thể còn vài nhà thơ nhà văn quân nhân khôngthấy có tên. Ta nghĩ tác giả không cố tình quên mà vì sốlượng các nhà thơ văn trong thời chiến kháđông… Ông nêu ra những người làm thơ lục bát mới(từ ngữ tân kỳ, ngắt câu bất ngờ) tưởngnhư khá ít ỏi, thực ra thì dồi dào, sở dĩ tathấy ít ỏi vì ông có thiện ý nhắc nhở một sốnhà thơ, tuy ít quen tên, mà lục bát của họ đã ởlại trong tâm hồn ông, Còn lục bát tân kỳ thờiVăn học Miền Nam 1954-1975 đã ở lại trong tâmhồn đa số người, trong đó cũng có ông,thì đã không hiếm gì trong sách báo vẫn tồn lưuđến giờ, nhất là được lưu lạiở hải ngoại. Thơ tình cũng một cách thiệný ấy; nhắc đến thơ tình của một sốtác giả dường như ít được biếtđến như thơ Lâm VỊ Thủy (thuộc nhóm Tạpchí Phổ Thông của nhà thơ Nguyễn Vỹ), hoặc mộtkhía cạnh trong thơ Nhã Ca: vài bài thơ tình lấy cảmhứng từ kinh sách Cựu Ước của Thiên ChúaGiáo (trang 289). Người cùng thế hệ, cùng trong bầukhí chiến tranh, ông nhớ đến nhiều những sốbáo đặc biệt của Tạp chí Văn, những sốbáo thỉnh thoảng lại trở lại chủ-đề“Những Người Viết Trẻ” và “Thơ Văn Có Lửa”.Điều này cho thấy nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanhnhư có khuynh hướng đề cập nhiềuhơn Văn học Miền Nam thời Đệ Nhị CộngHòa từ 1964 đến 1975, đó là thời kỳ chiếntranh khốc liệt mà Văn Học lại không phảnánh đầy đủ sự phong phú của nó. Bởi thànhphần nhà văn nhà thơ góp phần sáng tác thì không có báochí trong tay để phổ biến, vì họ là nhữngquân nhân trực tiếp tham dự nơi tiền tuyến,hoặc ở các ngành nghề cũng liên hệ đếnchiến tranh nhưng không là nghề làm báo. Báo liên hệđến quân đội đều thuộc về chínhquyền; họa hoằn mới có báo quân đội không cầnchịu quy chế nạp bản cho kiểm duyệttrước khi phát hành, chẳng hạn như tờ tuầnbáo “Khởi Hành”. Thời chiến tranh cao điểm, âm nhạcgiữ vai trò tác động tâm hồn quần chúng, mà nhạcnày thì cũng đều được sáng tác từ nhữngnhạc sĩ ở nơi đô thị có lẽ không phảnánh tính hiện thực nhiều chiều cạnh của chiếntranh, của xã hội nơi khói lửa tràn lan; chỉ cótính đau buồn chung chung về đất nước, ảnhhưởng đến người sống nơi đô thịnhiều hơn ở nơi hẻo lánh ruộng đồng.Văn thời chiến tranh đã ở lại trong tâm hồnnhà biên khảo rải rác ở những tiểu thuyết,truyện ngắn, của những tác giả muốn gửilại cho đời những thông điệp về nhân bản,về sự bất công, về sự hy sinh mất mát,như ở cuốn “Vòng Đai Xanh” của Ngô Thế Vinh,“Dấu Binh Lửa” của Phan Nhật Nam, “Nỗi BơVơ của Bầy Ngựa Hoang” của Trần HoàiThư… Truyện của Văn học Miền Nam dĩnhiên ông không thể không nhắc đến Võ Phiến, BìnhNguyên Lộc, Sơn Nam, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo,Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ, Viên Linh, Nhật Tiến,Thế Uyên, Y Uyên... Ông còn đề cập đến truyệncủa các nhà văn sau này mới biết là “nằm vùng” hoạtđộng cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chốngchính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Những người ấylà Vũ Hạnh, Ngụy Ngữ, Thế Vũ, Trần HữuLục, Trần Duy Phiên (từ trang 202 đến 205). Nhàvăn nhà thơ thời Văn Học Miền Nam phảinói là quá nhiều, vì lẽ đó ông cũng quên không nhắcđến văn truyện của Doãn Dân và Hoàng Ngọc Hiển,mà ở hải-ngoại mới thời gian gần đâynhà văn Trần Hoài Thư đã thực hiện hai sốbáo đặc biệt để tưởng niệm, mộtngười thì tử trận mất xác, một ngườithì suốt thời kỳ quân ngũ trấn đóng nơirất nguy hiểm ở ven quốc lộ 13, vùng mậtkhu của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Về kịchbản, văn chương có vẻ ở lại tâm hồnông qua những vở kịch có bối cảnh vùng sa mạcTrung Á thời quân Mông Cổ một thời oanh liệt,như “Người Viễn Khách Thứ Mười” củaNghiêm Xuân Hồng, “Thành Cát Tư Hãn” của vũ KhắcKhoan (từ trang 359 đến 363).

2/ Động Cơ Do KiếnThức Triết Học Tây Phương Đưa Vào Biên Khảo:Vềbộ môn biên khảo, như đã nói ở đoạntrước, nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh như nghiêngnhiều về kiến thức Triết học Tâyphương. Còn lại trong tâm hồn, văn chươngcó lẽ nặng hơn triết học, vì lẽ đó nênnhà biên khảo biểu hiện sự thông cảm phầnnào với cách thức “triết học nhào nặn vàovăn chương” của một số tác giả đa sốvốn là giáo sư triết học: những từ ngữthoát thai từ trộn lẫn hai môn học này nghe thậthay được nhắc lại, khiến ta lưu tâmtrước vẻ kỳ ảo của nó. Ví dụ TrầnNhựt Tân với các tựa đề: “Đi Tìm Ca Dao TrênTọa Độ Không Thời”, hoặc “Đinh Hùng TrênLưng Cánh Chim Dĩ Vãng”; “Nguồn Nước Ẩn CủaHồ Xuân Hương” (Đỗ Long Vân); “Một LốiTìm Về Triết Lý Cuộc Đời Trong Ca Dao ViệtNam” (Lê Tuyên); “Thiên Nhiên Trong Thi Ca Holderlin” (Hoàng Châu Thanh, có lẽđây là bút hiệu của Giáo sư Lê Tôn Nghiêm); “Đi ChoHết Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất” (PhạmCông Thiện); “Vũ Trụ Thơ” (Đặng Tiến);“Sa Mạc Lan Dần” (Bùi Giáng)… Trong đó là những nhào nặngiữa văn chương và triết học củaNietzche; của Hiện Tượng Luận Husserl và MerleauPonty; của Sartre, Camus, Heidegger, Bachelard… Những trang nhiềuthi tính của Camus trong “Kẻ Xa Lạ” và của Sartre trong“Buồn Nôn” khiến ta cũng không thể không kể đếntính thẩm mỹ trong văn các nhà văn với khuynhhướng Dấn Thân này. Nhận định củaSartre qua Nguyễn Vy Khanh trích dẫn, ta biết thêm vănchương nhào nặn vào Hiện Sinh như thế nào.Trước đây ta chỉ biết Hiện Sinh biểu hiệntrong nội dung, không rõ thể hiện như thế nào bằnghình thức, nghĩa là cách bộc lộ qua chữ nghĩa.Cách làm cho Hiện Sinh nhào nặn vào văn chương theoSartre như sau: “… lối chấmcâu, xuống hàng, một cách tạo hình ảnh… sử dụngnhững yếu tố ngôn ngữ, ngữ pháp… lựa chọnẩn dụ, hoán dụ, so sánh… sau đó sẽ khai triểnÝ Nghĩa Hiện Sinh của bút pháp hiểu như một LốiViết Riêng Biệt…”(trang 425). Đọc trọn vẹnQuyển Thượng của bộ sách biên khảo đồsộ này, có một điều độc giả dễ nhậnra hơn hết: Tác giả Nguyễn Vy Khanh biết rấtnhiều tư liệu và đề cập khá dồi dào vềnhóm Hành Trình, nhóm Trình Bầy, nhóm Tinh Việt Văn đoàn,các nhà văn Công Giáo (có vài vị xem như Thiên Tả); và cácgiáo sư viết sách cho đến nay được coi làhọc giả về Triết học Hiện Sinh như TrầnThái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm; các giáo sư Đại họcVăn Khoa xuất thân từ các trường đại họcở Âu Tây như Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Nam Châu; LêThành Trị, Bùi Xuân Bào, Nguyễn Khắc Hoạch, Thanh Lãng…Nói như vậy, nhưng trong sách của Nguyễn Vy Khanh cũngdồi dào phần đề cập đến các nhàvăn nhà thơ, các nhà biên khảo, các tập san, một thờinổi tiếng như Tuệ Sỹ, Nhất Hạnh, BùiGiáng, Phạm Công Thiện, Tạp chí Tư Tưởng củaĐại học Vạn Hạnh, Tạp chí GiữThơm Quê Mẹ của nhà xuất bản An Tiêm; các sáchbiên khảo của nhà xuất bản Lá Bối. Dồi dàokiến thức phía Công Giáo xem như Thiên Tả trong sách củaNguyễn Vy Khanh, nhiều chi tiết mà trước đâyngười viết bài này chỉ thoáng biết mơ hồnhư Tạp chí Đất Nước, Tạp chí Hành Trìnhcủa nhà xuất bản Nam Sơn; hoặc Tạp chí TrìnhBầy gồm những ai điều hành và cộng tác. Cácsách biên khảo Văn Học Miền Nam khác mà ngườiviết bài này từng đọc qua, thấy không đầyđủ điều cần muốn biết về các Tạpchí thuộc khuynh hướng Dấn Thân. Đây là điềurõ nét riêng trong sách này, còn về những vấn đềthuộc Văn học Miền Nam khác thì dĩ nhiên phảidồi dào trong bộ sách. Từ trang 71 đến 76, ôngNguyễn Vy Khanh kiểm điểm khách quan sự du nhậptư tưởng Tây phương như sau đây: “ Ngay từ khi nền Đệ NhấtCộng Hòa được chính thức thành lập ngày26/10/1956, chủ trương văn hóa duy linh và nhân vịđã được nâng cao lên hàng quốc sách… chủnghĩa Nhân vị được các vị lãnh đạođề xướng và thực thi… để phê phán các vấnđề triết học, sử học, luân lý, văn nghệvà giáo dục… Cũng từ năm 1957, Nguyễn Nam Châu  (tốt nghiệp Đai họcLouvain ở nước Bỉ) đã nói đến sứ mạngvăn nghệ trong “Những Nhà Văn Hóa Mới” và “SứMệnh Văn Nghệ” (cả hai do Đại Học xb.1958tại Huế)… đặt lại vấn đề vănnghệ (chủ đích, ảnh hưởng, cái Đẹp,văn nghệ và vấn đề siêu hình)… Bài diễnvăn của Camus (Camus nói đến một sự tựnguyện nhập cuộc, dấn thân và tinh thần đồngđội trong một tình cảnh không lựa chọn)…giáo sư Nguyễn Văn Trung (cũng tốt nghiệp ởĐại học Louvain) sử dụng (triết họcSartre) như quan điểm hiện đại, hợp thời…văn chương hôm nay không thể không vị-nhân-sinh, tứcđã là dấn thân…”. Tác giả Nguyễn Vy Khanh tiếptục kiểm điểm dấu vết của Triếthọc (nhất là Tây phương) thấy có 2 nhóm: nhóm du nhậptư tưởng do các người tốt nghiệp từnhững Đại Học ở Pháp, Bỉ, ThụySĩ; ngoài hai người đã kể trên, còn các vịnhư Trần Văn Toàn, Nguyễn Khắc Hoạch, NguyênSa, Thanh Lãng, Lê Tuyên, Lý Chánh Trung. Nhóm thứ hai du nhập kiếnthức từ các vị tốt nghiệp ở Anh hay NhậtBản hoặc Ấn Độ như Đỗ Khánh Hoan,Lê Văn, Thích Minh Châu, Lê Xuân Khoa… Càng về sau, Triết họcHiện Sinh của Sartre và Camus, của Karl Jaspers và GabrielMarcel, của Nietzche và Heidegger, Triết lý Phân Tâm học Vậtchất của Gaston Bachelard, Cấu Trúc Luận củaClaude Levi Strauss… càng được phổ biến trong báochí Văn học Miền Nam, và Nguyễn Vy Khanh không phảichỉ đôi lần viết đến trong sách của ông.Dĩ nhiên song hành với Triết lý Đông phương, nhấtlà ảnh hưởng Triết học Phật giáo, trongVăn học Miền Nam thời kỳ 1964 đến 1975(theo sự phân chia thành hai giai đoạn Văn học SửVăn học Miền Nam của Nguyễn Vy Khanh). NguyễnVy Khanh trình bày rõ nội dung bài viết “Rời Bỏ NềnVăn Chương Trú Ẩn” của Nguyên Sa đăngtrong tạp chí Đất Nước (số 2 năm 1967).Bài “Phê Bình quan điểm cách mạng xã hội của haiông Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung” do Nguyễn TrọngVăn viết dưới bút hiệu Nguyễn Văn Bảy);bài “Văn Nghệ Trước Mưu Đồ BấtChính Của Hệ Thống Chiến Tranh Lạnh” của ThếNguyên… cũng đã được Nguyễn Vy Khanh tóm tắtcho ta biết nội dung (ở trang 97). Tác giả NguyễnVy Khanh có liên hệ đến cuốn sách “Văn Hóa Văn Nghệ Miền Nam Dưới ChếĐộ Mỹ Ngụy” xuất bản năm 1977 ởtrong nước của ông Trần Hữu Tá (phê bình ảotưởng của nghiên cứu xã hội chủ nghĩathời Văn học Miền Nam). Một đoạnđược Nguyễn Vy Khanh trích ra như sau ở trang118: “… nghiên cứu về Mác Luận(Marxologie), một thứ triết thuyết xuyên tạc chủnghĩa Mác chân chính, tước bỏ hết nội dungcách mạng… và Mác biến thành một nhà triết họctư biện”. Cũng nên nhớ, trước khi có sựdu nhập Triết học Tây phương từ các giáosư tốt nghiệp chuyên ngành, ta cũng từng biếtđến những tư tưởng này khá sớm qua vàibài viết của các nhà văn Tam Ích, Nghiêm Xuân Hồng, tuyrằng rời rạc chen lẫn với vănchương, tuy vậy cũng một thời làm độcgiả lưu ý tinh chất tân kỳ trong những lậpluận, nhất là những đoạn về tri giác cụthể hay Trực quan hiện sinh của Sartre; hoặc conngười bị kết án tự do có vẻ lạ lùngcũng của Sartre (“l’homme est condamné à être libre”- NguyễnVy Khanh nhắc đến ở trang 95) . Đi vào chi tiếtdu nhập triết học Tây phương góp phần hìnhthành Văn học miền Nam, tác giả Nguyễn Vy Khanh lầnlượt nêu ra: Du nhập Phê bình Hiện sinh với Giáosư Nguyễn Văn Trung qua phân tích truyện củaDương Nghiễm Mậu, Thảo Trường, ThếNguyên. Du nhập Phê bình Hiện Tượng Luận củaHusserl (đồ đệ của Husserl gồm khá nhiềutriết gia danh tiếng như Heidegger, Bachelard, Sartre) cho nênphê bình theo hướng trên là nói chung, trong đó phảng phấtảnh hưởng của triết gia này hay triết giakhác trong bầu khí Hiện Tượng Luận: như LêTuyên (Một Lối Tìm Về Triết Lý Cuộc ĐờiTrong Ca Dao Việt Nam); Đỗ Long Vân (Nguồn NướcẨn của Hồ Xuân Hương); Bùi Xuân Bào (không phảibài báo mà là Luận án Tiến Sĩ Văn chương trình ởĐại học Sorbonne Paris: Biện Chứng Thời Gian-LeDialectique de la Durée); Trần Nhựt Tân (Tôi Đi Hái Trái TimĐinh Hùng Theo Địa Bàn Không Gian và Thời Gian); ĐặngTiến (Vũ Trụ Đinh Hùng), Nguyễn Châu (cũngkhông phải bài báo mà là Luận án Cao Học Triết Tây: ẢnhTượng Trong Triết Học Bachelard). Hoặc hướngphê bình theo thiển nghĩ gần như là “Giải CấuTrúc”của Hùynh Phan Anh qua cuốn “Văn chương và KinhNghiệm Hư Vô”, cũng như qua sách “Tác phẩm VănChương”. Có thể nghĩ ông bàn luận theo hướngGiải Cấu Trúc, vì Hùynh Phan Anh đã có nhận địnhnhư sau: “… tác phẩm không làmột trạng thái, nó là một vận hành… tác phẩm làkhả thể, vô số những khả thể. Nó mởra vô cùng… tác phẩm ước muốn hư vô, ướcmuốn cái không có gì…” Những phê bình này đượcNguyễn Vy Khanh trình bày rõ ở trong sách, từ trang 394đến trang 458. Các phê bình nhận định thơvăn Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Ngô TrọngAnh, thì cũng không hiếm trong sách của Nguyễn Vy Khanh.Chủ điểm của phần viết này muốn nêu rađộng cơ kiến thức Triết học Tâyphương có phần nào giúp Nguyễn Vy Khanh làm nên côngtrình biên khảo. Những nhà biên khảo phê bình thuần túyvăn học như Lê Văn Siêu, Nguyễn Hiến Lê, CaoHuy Khanh, Nguyễn Văn Sâm, Phạm Thế Ngũ, PhạmViệt Tuyền, Lê Ngọc Trụ, Lê Huy Oanh… qua nhậnđịnh của Nguyễn Vy Khanh thật là thiết yếucho ta biết những nét đại cương trong sách củahọ; cùng hơn 40 nhà nhân định phê bình khác đượcliệt kê đầy đủ làm rõ sự phong phú củaVăn Học Miền Nam (từ trang 451 đến 456).Riêng về người viết bài này thời Văn HọcMiền Nam cũng có dự phần đóng góp một sốbiên khảo nhận định, nhất là từng sáng tácThơ Văn Xuôi, được nhà phê bình Nguyễn Vy Khanhxếp vào loại phổ biến tư tưởng SiêuHình và cổ động Văn chương theo hướngHiện Đại (trang 84 và 220 trong sách của Nguyễn VyKhanh)… Tương tự như nhà phê bình Đặng Tiếntrong nguyệt san Tin Sách năm 1963, khi điểm qua tậpthơ của Trần Văn Nam, có nhận định“điều đáng trách” của TVN là đề cậpđến một số tư tưởng không nên biếtvới tuổi trẻ thời ấy, như  tư tưởng của Sartre (?)của Feuerbach (?). Lúc xuất bản hạn chế tậpthơ, mặc dầu in ấn lối Typo, TVN vừa tròn tuổi23 vào năm 1963.Và người viết bài này cũng đãđôi lần cải chính: Đem vài đoạn ngắntư tưởng trừu tượng làm thành các văn ảnhhay huyền truyện (theo thể Thơ Văn Xuôi) thì chủđích thiên về nghệ thuật hơn là nghiêng vềtư tưởng… Tiếp tục, do động cơlưu tâm Triết học Tây phương, nên Nguyễn VyKhanh nhắc đến sự công nhận đã phổ biếnTriết Học Hiện Sinh ở Miền Nam trong Bản KiểmThảo của Giáo sư Nguyễn Văn Trung trình bày chochính quyền mới sau năm 1975 (trang 446). Giáo sư Trungnói những người phổ biến Triết HọcSartre vào Văn Học Miền Nam gồm có vài giáo sưĐại học, trong đó có ông và Giáo sư Linh MụcTrần Thái Đỉnh. Giáo sư Đỉnh cải chính:chỉ Giáo sư Trung mới là người phổ biếnsâu rộng tư tưởng của Sartre (theo thiểnnghĩ: Giáo sư Nguyễn Văn Trung phổ biến khuynhhướng Dấn Thân của Sartre nhiệt tình hơnkhuynh hướng Trực quan Hiện Sinh từng áp dụngqua cuốn “Ca Tụng Thân Xác”). Giáo sư Đỉnh quảlà người đã “nghiêm khắc phê phán Triết Học củaSartre”. Đọc nơi cuốn “Triết Học HiệnSinh” (xb, trước 1975; Nxb. Văn Học ở Hà Nộitái bản năm 2005), Linh Mục Đỉnh có viết vềSartre trong 49 trang - từ trang 298 đến 346 - trình bày khúcchiết khía cạnh chuyên môn Triết Học rất khó hiểucủa Sartre ở tác phẩm “Hữu Thể và Hư Vô”(L’être et le néant). Linh Mục Đỉnh đánh giá nhưsau: “Các học giả công nhậnđây là kỳ công của Sartre: triết nhân đã gửivào cuốn sách này tất cả những gì là tinh hoa củatư tưởng ông. Trong hơn bảy trăm trang giấyđen nghịt những chữ, qua những phân tích đôikhi rất tinh vi về những cảnh huống sinh tồn,Sartre đã vạch trần những dự tính thầm kín củacon người, cả những ý hướng mà con ngườivì “ngụy tín” đã tự bịt mắt để khỏinhìn nhận”. Đây là đoạn Giáo sư Đỉnhkhen Triết học Sartre, khen những mô tả Hiện-Tượng-Luậnhay Trực quan Cụ thể Hiện sinh (Sartre khởiđầu áp dụng Trực quan này trong Tiểu thuyết “BuồnNôn”); còn đoạn ông nghiêm khắc phê phán Triết họcSartre ở chỗ Triết Học Sartre không có Giai ĐoạnTổng Hợp Đề khi giải quyết Biện ChứngMâu Thuẫn giữa hai điều gì đối nghịch(ví dụ Mâu thuẫn giữa Tinh Thần và Tự Nhiên củavạn vật, Hegel tổng-hợp-đề bằng Giaiđoạn Thuần Lý sau cuộc Hành Trình Hiện TượngHóa của Tinh Thần để thăng hoa thành Tinh ThầnTuyệt Đối. Còn Mâu thuẫn giữa Tư bản vàVô sản, Marx tổng-hợp-đề bằng Cần laođưa tới chế độ Cộng Sản. TriếtHọc Sartre không có giai-đoạn Tổng-hợp-đềgiữa “être en-soi và être pour-soi”, tức là giữa chủ-thểvà khách-thể nói cho dễ hiểu.Thực ra thuật-ngữêtre-ensoi và être pour-soi theo cách dùng của Sartre thì chính Giáosư Đỉnh cũng xác nhận Sartre viết quá chuyênmôn về Triết học nên rất khó hiểu. Không cógiai-đoạn tổng-hợp-đề nên Triết họcSartre chủ trì Tất Cả Vũ Trụ Con NgườiVạn Vật đều Phi Lý. Từ Phi lý trong chuyên môn Triếthọc đưa tới Phi lý trong đời người,trong xã hội, nên Triết học Sartre bị Giáo sưĐỉnh nghiêm khắc phê phán như sau đây: “Ông coi cái chi cũng tồi, xấu,nôn, y như kiểu con nhà giàu ngồi trước mâmcơm đầy cao lương mỹ vị mà vẫn ngoảnhđi không muốn ăn… chúng tôi không phủ nhận giá trịvăn học của Sartre, nhất là phần phân tích tâm lýhọc. Chúng tôi chỉ phê bình triết nhân sinh của Sartrethôi… Hễ hết nếp sống trưởng giả, thìcái nọc hiện sinh của Sartre cũng sẽ hết thời.Dân cần cù Việt Nam đòi một triết học hợpvới sinh hoạt của mình hơn.”

3/ Động Cơ PhảiThực Hiện Nghiêm Túc Do Quen Nghề Chuyên Viên Thư Viện:Phầntổng quan của một nền văn học là phầnkhó nhất trong bất cứ một cuốn sách biên khảonào. Tâm trí của tác giả đầu tư vào phần này,vì nó đòi hỏi sư hiểu biết nhiều chiềucạnh để tổng hợp, chương nào phảilà chương khởi đầu, chương nào kếtthúc, chương nào đào sâu nhiều hơn hết.Đường hướng của nhà biên khảo lầnlần rõ nét trong phần tổng quan này, vì tác phẩm khôngchỉ là toàn là tài liệu gom góp. Chính phần ý hướngnày đưa tác giả vào ý thức có hạn chế dànhcho công trình của mình. Tác giả Nguyễn Vy Khanh đã hoàntất công trình qua ba động cơ như đã trình bày ởtrên, phần gần cuối của Quyển Thượngbiểu hiện động cơ thứ ba: muốn tác phẩmnày là một tài liệu tham khảo cần thiết vềmọi khía cạnh làm nên Văn học Miền Nam, gồmcó đủ mọi ngành có liên hệ đã hình thành mộtnền Văn học phong phú do nằm lọt vào thời kỳxảy ra cuộc chiến tranh lớn giữa hai ý thứchệ. Kiểm điểm mới thấy rằng ngoài bộsách này, không còn thấy ở cuốn sách nào đầyđủ những liệt kê mọi yếu tố thuộcvề văn học (đôi khi ngoài văn học nhưngcó liên hệ nào đó). Trong hai động cơ (đã trìnhbày như trên) thúc đẩy Nguyễn Vy Khanh thực hiệnbộ sách, ta đã thấy rồi những ghi chú chính xác vềthời gian lịch sử, những trích dẫn đầyđủ cần thiết do công phu đọc sách đọcbáo; những xuất xứ rõ ràng đoạn văn hayđoạn thơ hay ở tài liệu nào… Không những liệtkê thứ tự mà tác giả Nguyễn Vy Khanh còn giới thiệucho ta biết qua. Chẳng hạn nhật báo hay tuần sanhay tạp chí có khuynh hướng ra sao, ngày tháng nào có mặtvà ngày tháng nào đình bản với những lý do. Hoặc báocủa những người chủ trương có khi bí ẩngiấu tông tích; hoặc cuốn sách viết những điềugì, nghĩa là không chỉ nhắc đến nhan đề.Các tác giả, dù không nổi tiếng lắm, cũng không phảichỉ ghi lại cái tên, mà còn đôi dòng giới thiệu. Rồicòn liệt kê Văn Chương Xám, tức những sách báochỉ lưu hành không kiểm duyệt, hoặc chỉ inroneo là phương tiện in ấn thủ công khá phổbiến trong thời Văn Học Miền Nam không có nhữngphương tiện tối tân điện tử như bâygiờ. Quen nghề xếp đặt thứ tự, quennghề kê khai công phu, quen nghề lưu trữ những tàiliệu cổ xưa hiếm quý… Cộng với ướcmong gìn giữ di sản Văn Học Miền Nam mà ông nóivăn chương của nó đã ở lại với tâmhồn ông từ thời còn ở bậc Trung Học… từđó Nguyễn Vy Khanh quyết định tổng-liệt-kêmà ta nghĩ chưa có sách biên khảo Văn Học MiềnNam nào đã từng thực hiện đầy đủcông phu sưu tầm hơn. Xen kẽ với nhữngđoạn nhận định hay viết phụ lục,hoặc viết Sơ Kết, ta thấy có những phầnLiệt Kê sau đây. Chương 6:  Liệt kê về Dịch Thuậtvà Văn học Nước Ngoài: Nguyễn Vy Khanh đã liệtkê kèm những lời nhân định về văn học mỗinước và đặc điểm mỗi dịch giả.Như  dịch thuật VănHọc Pháp, Văn Học Anh, Văn học Hoa Kỳ,Văn học Đức, Văn Học Nga, Văn HọcNhật Bản, Văn Học Ấn Độ, Văn chươngTrung Hoa, và Văn chương Thức Tỉnh gồm các tácgiả Solzhenitsyn, Milovan Dijlas, Koestler, Kafka. Dịch giả gồm19 vị, với những lời giới thiệu khá chi tiết.Ngoài ra có 4 nhà xuất bản chuyên về sách dịch  (từ trang 461 đến 484). Chương 7 Liệt kê về Báo chí MiềnNam: Tác giả Nguyễn Vy Khanh liệt kê có đến 95 tờbáo định kỳ gồm tạp chí, tuần san, nguyệtsan, đặc san… Tác giả giới thiệu các báo vănchương với rất nhiều hiểu biết, kèm theonhững nhận đinh khá tường tận các chủnhiệm chủ bút của các Tạp chí Văn Học ấy.Những Tạp chí Văn Học sau đây đượcông viết nhận định gồm một hai trang: Sáng Tạo,Hiện Đại, Thế Kỷ 20, Văn Nghệ, Vui Sống,Bách Khoa, Văn Hóa Á Châu, Đại Học, Nghiên CứuVăn Học, Văn Học, Văn, Nghệ Thuật, VấnĐề, Thời Tập, Khai Phá, Ý Thức, Thế Đứng,Tin Sách, Hành Trình, Trình Bầy, Đất Nước, TháiĐộ, Đối Diện, Lập Trường, HảiTriều Âm, Tư Tưởng, Giữ Thơm Quê Mẹ (từtrang 485 đến trang 554)… Ông liệt kê đến 60 tờNhật báo. Cũng trong chương 7 này, ông liệt kê 48 nhàxuất bản sách (từ trang 573 đến 589). Chương 8: Đặc biệt liệtkê Biên-Niên Lịch Sử và Văn Học. Phần này chưatừng thấy ỏ đâu trong các sách biên khảo VănHọc, họa hoằn mới có thể hiện hữutrong các sách về Lịch sử đất nước.Chương 8 liệt kê gần như tất cả sựkiện xảy ra từ 1954 đến 1976, từ sự kiệnlịch sử, chính trị, quân sự, đến sinh hoạtbáo chí, sinh hoạt văn chương (từ trang 593 đến634).

4/ Ý hướng thống nhấtnhân tâm và ý thức hạn chế của bộ sách biên khảo:Nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh thực hiện một côngtrình lớn, đầu tư rất nhiều thời giantìm tòi, đúc kết, lao tâm tổng hợp, sau đó tựý thức có sự hạn chế mà vẫn cứ tiếnhành. Xuất bản một cuốn sách dầy đến1530 trang trong hoàn cảnh nơi hải ngoại không có độcgiả nhiều, số người lớn tuổi hiểubiết Văn học Miền Nam ngày càng hao hụt; tuổitrẻ nơi hải ngoại chỉ có một số ítlưu tâm, lại thêm ở thời kỳ phương tiệnđiện tử dần dần thay thế sách báo in ấn.Vậy tác giả Nguyễn Vy Khanh có mong ngóng sách của mìnhsẽ được phổ biến ở trong nước?Nếu có điều mong ngóng ấy thì chắc là mong ngóngtrong tương lai. Từ 1975 đến 1990, trong 15 nămdưới chế độ mới, có ai tiên đoán mộtsố sách của vài tác giả thuộc Văn Học MiềnNam lại được tái bản; nhạc vàng không còn bịcấm đoán; người về nước không còn nhiềuphiền phức trình báo chính quyền… Có thể có mong ngóng ởtương lai, vì trong bài “Phụ Lục 1”  từ trang 640, tác giả liệt kêvài dáng vẻ như sau: “… cáctác phẩm của các tác giả thuộc Tự LựcVăn Đoàn và tiền chiến được in lạilần đầu trong tuyển tập “Văn xuôi Lãng MạnViệt Nam”… sau đó có bộ “Văn Chương Tự LựcVăn Đoàn”… một số giáo sư, nhà văn của chếđộ Việt Nam Cộng Hòa được tham khảo,lên tiếng hoặc nghiên cứu công khai trở lại… sáchdịch của các nhà văn sống thời Việt Nam CộngHòa từng bị cấm, nay được tìm kiếmđể in lại… nhiều nhà văn hải ngoạiđã in sách ở trong nước… mảng vănchương thuần túy, vị-nghệ-thuật đã cónhiều giao luu, hợp tác… Những từ Ngụy, MỹNgụy, bù nhìn, thực-dân-mới dần mất trong diễnvăn chính thức… thế thời có thế nào thì văn họcvẫn là hy vọng…”.Tuy vậy vẫn chỉ là mongngóng trong tương lai thôi, còn bây giờ thì chính tác giảcũng vạch ra một ranh giới ý thức hệ, hoàntoàn đứng về phía Văn Học Miền Nam từ1954 đến 1975, đầu tư sự hiểu biếtcho Văn học Miền Nam khiến ông đã hoàn thànhđược bộ sách đồ sộ, vậy kỳ vọng“thống nhất nhân tâm và địa lý” (như nhậnđịnh của ông Mai Anh Tuấn, ở trang 1520) cũngphải bị hạn chế. Ý nguyện “thống nhấtnhân tâm” đối với những phức tạp trongVăn học Miền Nam mà thôi. Từng đọc qua vài bộsách biên khảo về Văn học Miền Nam khác, ngườiviết bài này nhận thấy không ở đâu (trong sốcác sách đã biết) có dồi dào tài liệu hơn vềTạp chí Hành Trình, tạp chí Trình Bầy, tạp chí ĐốiDiện, Tạp chí Đất Nước, Nhóm Tinh ViệtVăn Đoàn (từ trang 536 đến trang 546). Trong khiđó, kiến thức về các Tạp chí Tư tưởng,Giữ Thơm Quê Mẹ, Hải Triều Âm, trong sách củaNguyễn Vy Khanh cũng cung cấp khá đầy đủsự hiểu biết mà bấy lâu đôi người vẫnchỉ nhớ lờ mờ (từ trang 550 đến trang552). Những phức hợp do phân biệt “chiếu trên chiếudưới” trong văn học mà ông Nguyễn Vy Khanh muốnđừng mắc phải; có lắm trang nhận địnhcho “các người viết trẻ” thời Văn HọcMiền Nam; cho các nhà văn ngoài trận mạc; cho các tạpchí văn chương ngoài Sài Gòn. Sự thật nhữngđóng góp ấy không nhiều lắm. Chính tác giả NguyễnVy Khanh bỏ vào sách thật dồi dào tài liệu cùng vớinhững tận tình nhận định cho các nhà vănthơ thuộc các tạp chí, thuộc các nhóm văn nghệ,phần lớn quy tụ ở Sài Gòn. Có một điềuta cũng thắc mắc tại sao Văn Học MiềnNam thời Đệ Nhị Cộng Hòa, kể  từ 1964 đến 1975, tứclà thời chiến tranh ác liệt, mà văn chương phảnánh lại ít được nhắc nhở hơn nềnVăn Học Miền Nam từ 1954 đến 1963. Tác giảnhư muốn không bỏ sót một ai trong những thơvăn đóng góp vào Văn Học Miền Nam, do đó ôngsưu tầm liệt kê tất cả 16 Tuyển TậpThơ văn 1954-1975 (từ trang 456 đến trang 458), nhờvậy mà nay chỉ đọc đến nhan đề tuyểntập thì ta muốn tìm đến để thưởngthức, chẳng hạn tuyển tập “Những TruyệnNgắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta” (xb. 1974);như “Ba Miền Mười Khuôn mặt” (xb. Năm 1966);hoặc “Hai Mươi Nhà Văn, Hai Mươi Truyện Ngắn”(xb. năm 1962). Nhà biên khảo Nguyễn Vy Khanh có lòng nhắcnhở hết tất cả các giải thưởngvăn chương thời Văn học miền Nam1954-1975 (từ trang 635 đến 638). Nhà biên khảo còn thêmmột điều nhắn gửi cho đời đừngquá thành kiến, đừng có theo thói thường “chạy theo hơi hướm củanhững người đã từng nổi danh một thời…không mở tầm thưởng thức nghệ thuật rộngra…” (trang 70). Những điều trên là ý hướng thốngnhất nhân tâm cho một nền văn học nay chỉcòn là di sản. Trong khi đó, với lập trường tậntình cho Văn Học Miền Nam, nên ý-thức sự hạn-chếdành cho bộ sách biên khảo này thuộc về chính trịthì ông biết dĩ nhiên là như vậy.